“Trục ma quỷ” đã bị
thổi phồng quá mức
Daniel R. DePetris và Jennifer Kavanagh | Foreign Policy
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2024/08/25/truc-ma-quy-da-bi-thoi-phong-qua-muc/
Các
đối thủ lớn nhất của Mỹ không phải là một mối đe dọa thống nhất.
Phát
biểu tại Diễn đàn An ninh Aspen vào tháng 7, John McLaughlin, một quan chức
tình báo lâu năm của Mỹ, đã mô tả mối đe dọa từ Trung Quốc, Iran, Triều Tiên,
và Nga là “đặc điểm nổi bật của thế giới chúng ta hiện nay.” McLaughlin, người
từng giữ quyền giám đốc CIA, còn cảnh báo rằng các đối thủ của Mỹ đã “thành lập
một nhóm” và ngày càng hợp tác để chống lại Washington và các đồng minh.
Ông
không phải là người đầu tiên đưa ra quan điểm này. Nhiều nhà phân tích chính
sách đối ngoại, nhà hoạch định chính sách, và quan chức quân sự cấp cao của Mỹ
đã lập luận rằng: Trung Quốc, Iran, Triều Tiên, và Nga đang dần liên kết với
nhau, nếu không muốn nói là hợp lực hoàn toàn. Những người khác mô tả quan hệ
này như một “trục ma quỷ” mới, gợi lại cụm từ của Tổng thống Mỹ George W. Bush
trong những tháng sau vụ tấn công ngày 11/9. Dù là với tên gọi trục biến động,
trục chuyên chế, hay trục rối loạn, thì xu hướng xem bốn nước này là một mối đe
dọa thống nhất đã xuất hiện khắp phổ chính trị Mỹ.
May
mắn thay, nỗi sợ về sự hồi sinh của trục ma quỷ cũng bị thổi phồng như cách đây
hơn 20 năm. Dù đúng là Trung Quốc, Iran, Triều Tiên, và Nga đang hợp tác hiệu
quả hơn so với trước đây, nhưng những gì họ chia sẻ với nhau chỉ có thể được mô
tả là một tập hợp các thỏa thuận thực dụng, chủ yếu là song phương và tạm thời,
được gắn kết với nhau bởi hoàn cảnh địa chính trị và quan điểm chung rằng chính
sách và thái độ hiện tại của Mỹ rất bất lợi cho lợi ích tương ứng của họ.
Việc
xem bốn đối thủ của Mỹ là một nhóm duy nhất sẽ làm chúng ta xao lãng khỏi lợi
ích riêng và những tham vọng rất khác nhau đang thúc đẩy họ, đơn giản hóa quá mức
các quan hệ đối tác riêng lẻ kết nối họ. Cư xử với họ như một trục ma quỷ sẽ
gây tổn hại đến khả năng bảo vệ lợi ích của Mỹ nhiều hơn là mang lại lợi ích.
Phần
lớn mọi người đều đồng ý rằng Trung Quốc, Iran, Triều Tiên, và Nga đã xây dựng
quan hệ bền chặt hơn kể từ khi Nga xâm chiếm Ukraine vào năm 2022. Nhưng thay
vì xem họ như một khối, sẽ chính xác hơn nếu chúng ta xem sự hợp tác của họ như
một chuỗi các cam kết song phương chồng chéo nhưng riêng biệt.
Bị
cô lập khỏi Mỹ và châu Âu bởi các lệnh trừng phạt và kiểm soát xuất khẩu, Nga
đã dựa vào các quan hệ mới này hết mức có thể để nhận được sự hỗ trợ quân sự,
kinh tế, và chính trị. Trung Quốc đã trở thành huyết mạch kinh tế của nước này.
Vào năm 2023, Nga là nguồn cung cấp dầu thô lớn nhất cho Trung Quốc, mang về
cho Moscow hàng chục tỷ USD mà họ rất cần. Thương mại Nga-Trung cũng đạt mức kỷ
lục 240 tỷ USD vào năm ngoái khi hàng hóa Trung Quốc bão hòa tại thị trường
Nga. Trung Quốc còn giúp duy trì hoạt động của cỗ máy chiến tranh Nga bằng cách
cung cấp các công nghệ lưỡng dụng và đầu vào công nghiệp dùng trong sản xuất quốc
phòng. Quân đội Nga và Trung Quốc hiện đang tiến hành các cuộc tập trận chung với
tần suất lớn hơn, gồm ở cả các khu vực nhạy cảm ở Tây Thái Bình Dương và gần Quần
đảo Aleutian của Alaska. Ngày 24/7, Bộ Chỉ huy Phòng không Bắc Mỹ đã đánh chặn
2 máy bay Nga và 2 máy bay Trung Quốc hoạt động trong Vùng Nhận dạng Phòng
không của Alaska.
Tổng
thống Nga Vladimir Putin cũng đã xây dựng quan hệ chặt chẽ hơn với Triều Tiên
và Iran, nhưng sự hợp tác này chỉ tập trung vào nhu cầu quân sự của Nga. Các
báo cáo từ tháng 6/2024 cho thấy Triều Tiên có thể đã chuyển tới 1,6 triệu viên
đạn cho Nga kể từ khi bắt đầu cuộc chiến ở Ukraine. Đổi lại, nhà lãnh đạo Triều
Tiên Kim Jong Un đã giành được sự ủng hộ của Nga tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc và được tiếp cận đáng kể vào nguồn dầu mỏ của Nga. Một thỏa thuận hợp tác
được ký kết trong chuyến thăm Triều Tiên hồi tháng 6 của Putin cam kết rằng hai
nước sẽ bảo vệ lẫn nhau trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công, dù các điều
khoản của thỏa thuận vẫn còn mơ hồ.
Về
phần mình, Iran cũng được cho là đã hỗ trợ quân sự cho Nga khoảng 400 tên lửa đạn
đạo, trong đó có nhiều tên lửa thuộc dòng Fateh-110. Nga đã đề nghị đáp lại một
cách gián tiếp, bằng cách xem xét trang bị vũ khí cho phiến quân Houthi tấn
công các tàu vận tải ở Biển Đỏ.
Thoạt
nhìn, những quan hệ đang phát triển này rất đáng lo ngại đối với Mỹ – và chúng
có thể liên quan đến những vấn đề cụ thể. Quan hệ giữa bốn nước đã làm phức tạp
thêm nỗ lực của Washington nhằm ép buộc bất kỳ nước nào trong nhóm này thực hiện
những thay đổi chính sách lớn. Việc Trung Quốc đều đặn nhập khẩu dầu thô từ
Iran đã mang lại cho Tehran cơ hội kiếm được doanh thu cần thiết khi ngành công
nghiệp dầu mỏ của nước này vẫn bị chặn ở Mỹ và châu Âu. Trong khi đó, sự hợp
tác giữa Nga và Trung Quốc tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã làm thất bại
các sáng kiến ngoại giao do Mỹ dẫn đầu, xoay quanh vấn đề Syria, Triều Tiên, và
Gaza. Các cuộc tập trận quân sự chung giữa Nga và Trung Quốc cũng cho phép cả
hai bên học hỏi chiến thuật và chiến lược của nhau – điều chắc chắn đã khiến Lầu
Năm Góc lo ngại.
Tuy
nhiên, xem xét kỹ lưỡng hơn cho thấy rằng mỗi quan hệ đối tác mới của Nga đều
mang tính giao dịch và gần như chắc chắn là tạm thời. Đúng là không nên xem sự
hợp tác ngày càng tăng giữa Nga và Triều Tiên chỉ là một thỏa thuận giao dịch,
nhưng nhu cầu chung vẫn là động lực lớn. Putin cần càng nhiều đạn dược càng tốt
để hỗ trợ cuộc chiến của ông ở Ukraine. Ngược lại, Kim đang rất cần nguồn cung
thực phẩm và năng lượng do tình trạng thiếu hụt trong nước lan rộng và mong muốn
giảm sự phụ thuộc của Triều Tiên vào Trung Quốc. Trong khi Bình Nhưỡng hy vọng
rằng quan hệ được cải thiện sẽ là dài lâu, thì nhu cầu về quan hệ đối tác của
Moscow lại gắn chặt với cuộc chiến.
Sự
hợp tác giữa Nga và Trung Quốc mang tính thực chất hơn và khiến Mỹ và các đồng
minh lo ngại hơn, nhưng nó cũng có những giới hạn rõ ràng. Dù Moscow và Bắc
Kinh đã nỗ lực rất nhiều để vượt qua sự nghi ngờ lẫn nhau, nhưng lợi ích của họ
không hoàn toàn thống nhất với nhau. Hãy xem xét chuyến thăm Trung Quốc ngày 15
và 16 tháng 5 của Putin. Dù được đón tiếp hoành tráng, nhà lãnh đạo Nga vẫn ra
về tay trắng. Đường ống Sức mạnh Siberia 2 nhằm chuyển hướng khí đốt tự nhiên của
Nga từ châu Âu sang Trung Quốc vẫn không hoạt động bất chấp nhiều năm vận động
hành lang của Nga.
Về
cốt lõi, quan hệ này dựa trên sự thuận tiện ngắn hạn. Nga cần Trung Quốc trong
vai trò nhà tài trợ, một tình huống mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chắc chắn
mong muốn khi ông thúc đẩy các điều khoản ưu đãi trong hợp đồng năng lượng. Đối
với Tập, quan hệ đối tác với Nga là cách để tăng cường sức mạnh của Trung Quốc
trong hệ thống quốc tế và thách thức sự thống trị của Mỹ. Giống như cách Putin
sẽ hạ thấp quan hệ với Kim sau khi chiến tranh ở Ukraine kết thúc, Tập có thể
rút khỏi quan hệ đối tác với Putin nếu quan hệ đó không còn hữu ích nữa.
Ngoài
những quan hệ lấy Nga làm trung tâm thì sự hợp tác giữa bốn nước này còn hạn chế,
do đó làm suy yếu những tuyên bố rằng họ đang hoạt động như một khối để thách
thức lợi ích của Mỹ. Quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc và Iran chủ yếu tập trung
vào trao đổi kinh tế. Trong số 1,5 triệu thùng dầu mà Iran xuất khẩu mỗi ngày,
85 đến 90% được xuất sang Trung Quốc với mức chiết khấu lên tới 15%. Trung Quốc
cũng đã hỗ trợ cho Iran tại Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế và tạo điều kiện
cho Iran bình thường hóa quan hệ với Ả Rập Saudi. Tuy nhiên, khó có khả năng Bắc
Kinh sẽ hỗ trợ Tehran nếu nước này quyết định đẩy giới hạn đi quá xa, chẳng hạn
như vũ khí hóa chương trình hạt nhân của mình.
Trong
khi đó, bất chấp liên minh chính thức, quan hệ của Trung Quốc với Triều Tiên có
vẻ hơi mong manh. Lo ngại về khả năng gây chiến của nước láng giềng – và rằng một
Triều Tiên hung hãn có thể dẫn tới sự hiện diện quân sự ngày càng sâu rộng của
Mỹ trong khu vực – Bắc Kinh đã trở nên cảnh giác trong các giao dịch với Bình
Nhưỡng. Nước này phản đối việc bị lôi kéo vào bất kỳ liên kết ba bên nào với
Nga và Triều Tiên, vì điều đó có thể làm trầm trọng thêm căng thẳng với phương
Tây.
Đối
với một số quan chức Mỹ, việc không có một trục thực sự giữa bốn quốc gia này
chỉ là sự khác biệt vô nghĩa, bởi cả bốn nước vẫn đang tìm cách thách thức trật
tự thể chế do Mỹ xây dựng. Nhưng khác biệt này rất quan trọng vì nó tiết lộ các
yếu tố giúp giữ vững các quan hệ này. Nó cũng giúp các nhà hoạch định chính
sách Mỹ phân biệt các khía cạnh hợp tác cần có phản ứng từ Mỹ với các khía cạnh
ngoại vi có thể được quản lý hoặc bỏ qua.
Ví
dụ, Mỹ đã chi một số vốn chính trị đáng kể nhằm cắt đứt trao đổi kinh tế về
hàng điện tử cơ bản, hàng tiêu dùng, vật liệu công nghiệp, và các hàng hóa khác
giữa bốn đối thủ. Nhưng trong khi thương mại trong các lĩnh vực này khiến các
nhà hoạch định chính sách Mỹ thất vọng, thì những sản phẩm này sẽ không làm gì
nhiều để thay đổi cán cân quyền lực lâu dài giữa bất kỳ nước nào trong bốn nước
này với Mỹ và các đồng minh.
Mặt
khác, việc trao đổi các hệ thống và kiến thức quân sự tiên tiến hơn – tên lửa đạn
đạo, máy bay không người lái, công nghệ hạt nhân và vệ tinh, cũng như bí quyết
làm chủ tàu ngầm không tiếng ồn và động cơ phản lực hiệu suất cao – có thể làm
thay đổi cán cân năng lực quân sự giữa Mỹ và các đối thủ theo những cách có ý
nghĩa và lâu dài. Những trao đổi này diễn ra ít thường xuyên hơn, nhưng nên là
tâm điểm chú ý của các nhà hoạch định chính sách Mỹ.
Tên
gọi “trục ma quỷ” đã làm xao lãng khỏi những trọng tâm kể trên, theo đó có khả
năng dẫn đến những quy định chính sách quá rộng với kết quả kém hấp dẫn. Gây
chia rẽ giữa bốn nước này trên quy mô lớn là không khả thi, và việc cố gắng làm
điều đó sẽ chỉ khiến Mỹ, vốn đã bị quá tải, lao đầu vào các cam kết không bền vững.
Thay
vì xem bốn quốc gia này là một khối thống nhất, các nhà hoạch định chính sách
nên theo đuổi các chiến lược tách biệt nhằm giải quyết những thách thức riêng
mà mỗi nước đặt ra và cần nhắm vào các trao đổi song phương gây quan ngại nhất.
Cụ thể, thay vì dựa quá nhiều vào các biện pháp trừng phạt kinh tế và tài chính
trên diện rộng, các nhà hoạch định chính sách Mỹ nên thử nghiệm các biện pháp
khuyến khích tích cực nhằm khai thác những tham vọng khác nhau của bốn nước. Chẳng
hạn, Iran và Triều Tiên có thể sẵn sàng hạn chế chuyển giao vũ khí cho Nga để đổi
lấy việc nới lỏng các hạn chế kinh tế hiện có hoặc sự hợp tác có giới hạn trong
phát triển cơ sở hạ tầng và công nghệ thương mại. Trung Quốc, nước cảm thấy bị
tước mất quyền lợi trong hệ thống quốc tế do Mỹ dẫn đầu, có thể bị lôi kéo vào
việc hạn chế chia sẻ công nghệ với Nga hoặc Triều Tiên để đổi lấy việc được
tham gia vào các diễn đàn đa phương mới và có quyền ra quyết định lớn hơn trong
quản trị toàn cầu.
Những
động thái như vậy sẽ vấp phải sự phản đối, đặc biệt là từ những người đã quá gắn
bó với trục ma quỷ. Trung Quốc, Iran, Triều Tiên, và Nga đều mong muốn một trật
tự quốc tế không bị Mỹ thống trị, nhưng điều tệ nhất mà Washington có thể làm
là thổi phồng quá mức mối đe dọa từ liên minh của bốn nước này. Điều đó sẽ gây
tổn hại lớn đến các mục tiêu cốt lõi trong đại chiến lược của Mỹ: duy trì cân bằng
quyền lực toàn cầu thuận lợi, giảm thiểu nguy cơ vướng vào các xung đột không cần
thiết, và bảo toàn cơ hội xây dựng quan hệ tốt đẹp với bốn quốc gia này nếu bối
cảnh địa chính trị thay đổi trong tương lai.
--------------------------------
Daniel
R. DePetris là nghiên cứu viên của Defense Priorities và là chuyên gia bình luận
chuyên mục đối ngoại của Chicago Tribune.
Jennifer
Kavanagh là nghiên cứu viên cấp cao và giám đốc phân tích quân sự tại Defense
Priorities và là giáo sư tại Đại học Georgetown.
Nguồn: Daniel R.
DePetris và Jennifer Kavanagh, “The ‘Axis of Evil’ Is
Overhyped,” Foreign
Policy, 14/08/2024
No comments:
Post a Comment