Căn bệnh Venezuela
(The Venezuelan Disease)
https://diendantheky.net/nguyen-xuan-tho-can-benh-venezuela-the-venezuelan-disease/
Những hình
ảnh về biểu tình ở Venezuela hôm nay khiến mình nghĩ đến loạt bài về căn bệnh
Venezuela viết cách đây sáu năm.
Căn
bệnh Venezuela (The Venezuelan Disease)
Trong lịch
sử hiện đại có nhiều địa phương và lãnh thổ đươc lấy tên để đặt cho các hiện tượng
chính trị và xã hội.
Ví dụ khái
niệm “Phần Lan hóa” (Finlandization) (1) ám chỉ quốc gia nào muốn học tập chính
sách đối ngoại của Phần Lan trong giai đoạn 1945-1990. Nước Phần Lan nhỏ bé ở Bắc
Âu, nằm cạnh nước Nga khổng lồ, luôn chịu áp lực thôn tính từ nhiều thế kỷ.
Trong chiến tranh thế giới II, Liên Xô chiếm Phần Lan. Vì vậy Helsinky phải
liên minh với Hitler để chống lại sự chiếm đóng của Stalin. Cũng vì vậy mà Phần
Lan bị Liên Hiệp Quốc lên án. Năm 1944 Phần Lan ký hòa ước với Liên-Xô và đồng
ý nhường một phần lãnh thổ phía nam. Liên Xô không thôn tính Phần Lan như 3 nước
Pribaltic khác là Lithuania, Estonia và Litva. Để đảm bảo sự thịnh vượng của
mình, Phần Lan chấp nhận một mô hình Tư bản Chủ nghĩa thân Liên Xô, chấp nhận
nhiều yêu sách của Mạc Tư Khoa trong cả đối nội và đối ngoại. Ngày nay, cả
phương Tây lẫn Nga vẫn coi Phần Lan, tuy là thành viên EU, là vùng đệm trung lập.
“Hội chứng
Stockholm” (Stockholm Syndrome) (2) là diễn biến tâm lý của những người bị bắt
con tin, sau một thời gian chung sống với bọn bắt cóc đã dần đi đến đồng cảm với
chúng. Sự việc diễn ra từ ngày 23 đến 28.8.1973 tại một nhà bank ở trung tâm thủ
đô Thụy Điển khi bọn cướp nhà bank giam giữ bốn nhân viên trong đó để thương thảo
với cảnh sát. Trong suốt 5 ngày này, bốn vị con tin luôn sợ bị chết vì đạn lạc
của cảnh sát tấn công hơn là sợ những tên cướp. Khi được giải thoát, họ còn biết
ơn “các anh cướp” đã cho họ đi đái, đã cho họ ăn. Họ viết đơn xin tha cho “các
anh”, trong khi những vất vả nguy hiểm của cảnh sát thì họ không biết đến.
Cuối tuần
rồi, tiều phu tôi lại đi dự hội chợ IBC về Truyền thông quốc tế ở Amsterdam
(International Broadcasting Convention). Ở đó tôi gặp lại nhiều đồng nghiệp từ
khắp năm châu. Riêng anh bạn Alberto từ Venezuela thì không thấy nữa. Alberto
là chủ một công ty chuyên cung cấp kỹ thuật cho các đài truyền hình ở
Venezuela.
Những năm
trước, khi trao đổi với tôi về chuyện làm ăn bên đó, anh vẫn lạc quan là giới
chủ và trung lưu vẫn đủ mạnh để quật đổ chế độ Chavez bằng chính trường. Quả thật,
những năm sau đó làn sóng phản đối Chủ nghĩa Xã hội kiểu Chavismo đã dâng lên
cuồn cuộn, thậm chí người ta tưởng một cuộc nội chiến sẽ xảy ra.
Mấy email
cuối cùng của tôi, Alberto không trả lời. Một đồng nghiệp Nam Mỹ nói: Alberto
đã đóng cửa công ty, bỏ ra nước ngoài. Venezuela đang chìm đắm từ từ. Một đất
nước đang tan rã. Tôi coi Alberto là nạn nhân của “Căn bệnh Venezuela”.
Venezuela
từng là một nước giàu có nhất Nam Mỹ, với trữ lượng dầu mỏ đứng đầu thế giới.
Năm 1998, khi Việt nam còn lóp ngóp ở mức PP-GDP (thu nhập bình quân theo sức
mua) 1.500USD/năm thì Venezuela đã đạt 20.000 USD. Đất nước này đã từng có một
nền dân chủ đại nghị, từng là quê hương của nhiều hoa hậu nhất thế giới. Những
năm đầu của chế độ Chavez, Venezuela là người cung cấp tín dụng hào hiệp cho
các phong trào cánh tả Nam Mỹ.
Hoa
hậu Venezuela 2007, ở giữa là Dayana Mendoza, Hoa hậu Hoàn vũ 2008. Venezuela từng
là lò ấp hoa hậu của thế giới.
Các chính
phủ tư sản trước đó cố tình lãng quên số phận của hàng triệu người nghèo đã khiến
họ ùn ùn đi theo phong trào cách mạng Bolivar của Hugo Chavez. Năm 1998 viên sỹ
quan thiên tả đã lên cầm quyền trong một cuộc bầu cử dân chủ.
Chavez là
một chính khách đầy sức quyến rũ, với chiếc mũ bê-rê đội lệch và những bài phát
biểu hùng biện kiểu Fidel Castro.
Quyến rũ
hơn là cuộc cách mạng XHCN được xây dựng trên nền tảng một hiến pháp đa đảng và
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Xã hội đó đã khiến cho Chavez không thể làm như Cu Ba
hay Việt Nam. Nền kinh tế thị trường cũng như các đảng phái và truyền thông tự
do còn nguyên. Nhưng Chavez đã làm sai hết tất cả những gì có thể làm sai: Từ
quốc hữu hóa các tập đoàn dầu lửa đến việc can thiệp vào ngân hàng trung ương để
in tiền thỏa thích. Ngay cả trò chơi chủ nghĩa Cộng sản xăng dầu cũng thể hiện
sự ngông cuồng của một hiệp sỹ cánh tả. (Giá xăng ở Venezuela rẻ hơn nước lã đã
nêu trong một bài khác).
Hiệp sỹ bò
tót Tây Ban Nha khác các nhà cách mạng cửa miệng Á-Phi ở chỗ: nói là làm!
Chavez đã giữ lời hứa với số đông bần hàn đi theo ông. Đổi lại viện trợ xăng dầu,
hàng đoàn cán bộ y tế và giáo dục Cuba đã đem lại ánh sáng văn hóa và sức khỏe
cho hàng triệu dân nghèo Venezuela. Nhà nước cũng có những chương trình phúc lợi,
sử dụng thuế thu từ người giàu để nâng đỡ kinh tế người nghèo. Chính lực lượng
này đã đền ơn, giúp Chavez và Maduro lần lượt vượt qua mọi cuộc bầu cử, trưng cầu
dân ý và thay đổi hiến pháp, bất chấp mọi sự phản kháng của thị dân, trí thức,
trung lưu và giới chủ.
Sau khi sống
sót cuộc đảo chính hụt 2002, Chavez đã biến bộ máy cảnh sát và quân đội tư sản
thành lực lượng vũ trang cách mạng của người nghèo và lực lượng này đủ sức đàn
áp tất cả các cuộc nổi dậy ở Venezuela suốt 10 năm qua.
https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2024/08/Hugo_Rafael_Chavez_Frias.jpeg
Hugo
Chávez, Tổng thống thứ 52 của Venezuela từ năm 1999-2013\
https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2024/08/Nicolas_Maduro_in_2023_cropped.jpg
Nicolás
Maduro, Tổng thống thứ 53 của Venezuela từ năm 2013
Hậu quả cuộc
cách mạng XHCN mang tên Bolivar: Việc tước đoạt tài nguyên và tích trữ quốc gia
để phát chẩn toàn quốc và quốc tế, việc ban phát quyền lãnh đạo kinh tế cho những
kẻ chỉ biết trung thành với mình và việc quản lý các tập đoàn kinh tế nhà nước
theo kiểu tiêu tiền chùa đã phá tan toàn bộ cơ sở kinh tế của nước này.
Thế giới
đang nói về thảm họa di dân Venezuela. Các doanh nhân, trí thức, tư sản đã rục
rịch bỏ đi từ vài năm trước. Nhưng trong những tháng vừa qua, có khoảng 2 triệu
người thị dân, sinh viên, công chức đua nhau xếp hàng chạy qua biên giới
Columbia, Brazil. Thu nhập theo đầu người giảm từ 20.000 USD năm 1999 xuống
12.100 USD năm 2017 (3) quả là đáng sợ. Nhưng 12.100 USD thì vẫn còn cao so với
nhiều nước, vậy sao lại có làn sóng bỏ nước ra đi như hiện nay, có nạn đói ở
nhiều vùng?
Khốn nỗi
là số tiền đó được phân phối bất bình đẳng, nhưng ngược lại với trước đây 19
năm. Tức là lực lượng cần lao, thất học được ưu ái hơn, đã chiếm quyền chia chiếc
bánh đang xụm lại. Lực lượng này đang là chỗ dựa vững chắc cho Maduro.
Hơn thế nữa
sau vài năm liền biểu tình, đình công, xuống đường chọi nhau với cảnh sát, đổ
bao nhiêu máu mà không thấy khả năng sụp đổ của Maduro, phe đối lập bắt đầu thối
chí. Tuy nền kinh tế tư nhân vẫn còn nguyên, nhưng khu vực nhà nước đang phình
ra với bộ máy quan liêu tham nhũng chỉ biết lo phân phát bổng lộc cho nhau đã
khiến giới chủ khánh kiệt và bỏ cuộc (như anh bạn Alberto). Khi giới chủ bỏ cuộc
thì nền kinh tế bị trụy tim. Nông dân không có phân bón vì hãng vận chuyển đóng
cửa. Lượng nông sản vốn đã ít ỏi lại ứ đọng dẫn đến nạn đói…
Vòng xoáy
đói nghèo đang phá tan xứ sở của dầu mỏ và hoa hậu, khi mà nguyên khí quốc gia
tan rã.
***
Căn
bệnh Venezuela (2) (Ủy Nội Thụy Lạp nan y)
Con người
mắc chứng bệnh hiểm nghèo vẫn có thể tìm ra liệu pháp để hồi phục. Những nước bị
chiến tranh hủy diệt như Đức, Nhật hay Nam Triều Tiên, khi có chính sách đúng
đã trở thành cường quốc.
Nhưng kẻ cố
tình gây bệnh cho mình, bởi nghiện ngập hay lối sống sa đọa, thì vô phương cứu
chữa. Thậm chí không bác sỹ nào muốn chữa bệnh cho kẻ cố tình hủy diệt đời
mình.
Venezuela
hiện đang bị hầu hết các nước Nam Mỹ cô lập và ngày 06.06 vừa qua, Tổ chức các
nước châu Mỹ OAS đã kêu gọi 34 thành viên hãy khai trừ Venezuela ra khỏi tổ chức
này vì các hành động vi hiến của chính quyền Maduro (1)
Thay vì cởi
mở hơn để thoát cảnh cô lập, Maduro lại đi tiếp nước cờ nguy hiểm để chọn thầy
thuốc cho mình. Trong chuyến thăm Băc Kinh hôm 13.09, Maduro đã được Tập Cận
Bình cho vay 5 tỷ USD (2), với điều kiện Trung Quốc sẽ nhảy vào ngành dầu khí
“tiêu dầu như nước lã” của Maduro.
Đến đây
thì ai cũng hiểu là bi kịch sẽ kết thúc ở đâu.
Có người
cho rằng thảm họa kinh tế của Venezuela do giá dầu mỏ tụt. Thực tế là GDP của
Venezuela bẳt đầu tụt trong thời gian giá dầu mỏ tăng cao nhất vào những năm
2011-2014, trên 100 USD/Barrel. Ngược lại, đỉnh cao của kinh tế Venezuela là từ
2005-2010 khi giá dầu còn ở mức 60-85 USD/Barrel. Ngày đó các công ty dầu lửa bị
quốc hữu hóa vẫn còn trong tình trạng tốt, chưa bị rệu rã và xuống cấp như sau
này. Mặt khác, mọi hoạt động kinh tế của khu vực tư nhân vẫn chạy trơn tru
trong một xã hội đa nguyên.
Thảm họa
kinh tế chỉ đến khi Chavez lâm bệnh vào năm 2012, bắt đầu hoảng loạn, sử dụng bạo
lực, gian lận bầu cử, thay đổi hiến pháp…. khiến lòng người ly tán.
Bất luận nền
kinh tế nào, nếu chỉ trông vào bóc lột tài nguyên thì hậu quả cũng như nhau. Nước
Nga của Putin là như vậy. Nước này sống trên những túi dầu khí khổng lồ, nhưng
khi giá dầu lên cao, đã không tận dụng cơ hội để phát triển các ngành kinh tế
khác. Khi giá dầu tụt tất nhiên khủng hoảng sẽ đến. Tuy từng là siêu cường quốc,
nhưng suốt thời gian dài hậu Xô viết, Nga chỉ dựa vào khai khác tài nguyên nên
phải nhập từ cuộn giấy vệ sinh đến bánh xà phòng. Khi giá dầu tụt người dân Nga
khốn khó đủ điều. Sau khi thôn tính Crimea năm 2014, bị phương Tây trừng phạt
kinh tế, thiếu thốn lại tăng theo cấp số nhân. (Nhưng bao vây kinh tế đã khiến
cho Gấu Nga thức tỉnh. Nhờ có tiềm lực kỹ thuât mà công nghiệp Nga đang dần trở
lại).
Cũng là một
nước xuất khẩu dầu mỏ, nhưng Na-Uy chú trọng phát triển kinh tế đa dạng. Khi
giá dầu tụt xuống, kinh tế và xã hội của nước này vẫn vững như bàn thạch.
Bài học của
Na-Uy cho thấy: phát triển bền vững chỉ tồn tại trong một thể chế lành mạnh.
Căn bệnh trầm kha của Venezuela chứng minh mặt đen của chân lý này.
Việt Nam
cũng đã đi vào từ vựng quốc tế bởi danh từ “Hội chứng Việt Nam” (Vietnam
syndrome). Nhiều người Mỹ mắc phải hội chứng này khi nghĩ về cuộc chiến đã
qua.
Có người
lo ngại Việt Nam sẽ bị Trung Quốc “Phần Lan hóa”, tức là trở thành một vệ tinh
của họ (3). Tôi thì cho rằng nếu Việt Nam học tập Phần Lan, xây dựng một thể chế
dân chủ, một nền kinh tế thị trường lành mạnh, nhưng có những nhường nhịn với
Trung Quốc về đối ngoại và tỏ ra trung lập với phương Tây để khỏi làm phiền ông
hàng xóm hung hãn, thì quá hay. Đáng tiếc là đu dây thì vẫn cố, nhưng Dân chủ
và Kinh tế thị trường thì không.
Tôi chỉ lo
một số người Việt mắc phải “Hội chứng Stockholm”. Sống với thằng cướp lâu ngày,
họ gắn số phận của mình vào thằng cướp, đồng cảm với thằng cướp, lo nó chết thì
mình chết theo. Cảnh sát muốn vào cứu thì sợ chết vì đạn lạc.
Những người
này, tuy thân Trung Quốc, nhưng chưa chắc đã biết rẳng Venezuela trong tiếng
Hoa viết là 委內瑞拉, đọc theo âm
Hán-Việt là “Ủy-Nội Thụy-Lạp” (cũng như Rumania = Lỗ Mã Ni hay Czechslovakia =
Tiệp Khắc). Và họ cũng lạc quan là Việt Nam sẽ không bao giờ mắc phải chứng “Ủy
nội Thụy Lạp nan y”.
Tất nhiên
Việt Nam và “Ủy-Nội Thụy-Lạp” ở vào hai hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Trong khi
kinh tế Venezuela liên tục suy giảm ở mức hai con số/năm thì Việt Nam vẫn tiếp
tục tăng trưởng ở mức 6%. Mức sống người Việt được cải thiện trông thấy. Người
Việt tiêu thụ bia nhiều nhất châu Á, trong khi dân “Thụy Lạp” chỉ có xăng để uống.
Người “Thụy Lạp” từ chỗ xem TV và báo chí tư nhân thoải mái, nay đang tập thói
quen xem TV của Maduro nhiều hơn, vì các kênh tư nhân đang dần teo lại. Trong
khi đó người Việt tuy không có báo tư nhân, nhưng lên mạng chém gió có vẻ thoải
mái hơn trước.
Người Việt
cũng lo ngại về nạn bỏ nước ra đi của thanh niên, trí thức. Nhưng người Việt dù
đi đến đâu thì sau vài thế hệ vẫn là người Việt và tâm trí họ vẫn hướng về quê
hương. Dân tộc Việt nam được kết dính bởi một nền văn hóa và lịch sử gần 3000
năm. Ngược lại nhà nước Ủy-Nội Thụy-Lạp mới được Simon Bolivar thành lập đầu thế
kỷ 19. Dân chúng quốc gia trẻ tuổi này cùng nói tiếng Tây Ban Nha, có nguồn gốc
từ người da trắng, da đen và da đỏ. Họ có thể sinh sống khắp Nam Mỹ mà vẫn cảm
thấy như ở nhà, vì cùng ngôn ngữ, cùng văn hóa Hispanic và đạo thiên chúa. Do vậy
sự kết dính với đất nước lỏng lẻo hơn.
Đó là những
biểu hiện nói lên sự khác biệt của hai xã hội. Nhưng tiềm ẩn phía sau là sự
tương đồng không thể coi thường.
Với 12.000
USD/đầu người, giới trung lưu và trí thức “Ủy-Nội Thụy-Lạp” ra đi không phải vì
thiếu đói. Chỉ vì họ bỏ đi mà đất nước giàu có này bổng trở nên tê liệt, thiếu
đói, dù thu nhập vẫn cao. Họ bỏ đi vì lo sợ cho tương lai con cái.
Họ đã tận
dụng mọi khả năng của hiến pháp dân chủ để giành chiến thắng trong các cuộc bầu
cử, các cuộc trưng cầu dân ý về Hiến pháp. Họ đã thắng cử và đã giành quyền kiểm
soát quốc hội. Một số sỹ quan yêu nước đã mưu toan binh biến.
Nhưng tất
cả mọi việc đều vô ích. Bằng súng ống và sự hỗ trợ của đám đông cuồng tín,
Maduro đã lập ra quốc hội bù nhìn, giải tán quốc hội dân bầu.
Nhìn vào
đám đông cuồng tín đó đang quyết định vận mệnh dân tộc, những người thua cuộc
đành phải gạt nước mắt ra đi. Họ ra đi vì mất niềm tin.
Người
Venezuela ồ ạt bỏ nước ra đi
https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2024/08/Venezuelan-refugee-crisis-hinh-1.jpg
Hàng
trăm người Venezuela đang chờ để đóng dấu hộ chiếu của họ tại một cơ quan hải
quan Ecuador
https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2024/08/Venezuelan-refugee-crisis-hinh-2.jpg
Cảnh
sát quốc gia Colombia dẫn người Venezuela vào Cúcuta, Colombia
https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2024/08/Venezuelan-refugee-crisis-hinh-3.jpg
Hành
khách máy bay rời Venezuela từ Sân bay Maiquetia
Người Việt
cũng đang bị khủng hoảng lòng tin, lý do chính không phải vì các bất cập về
kinh tế, mà vì các vấn nạn xã hội, từ giáo dục, văn hóa đến y tế, vì sự tan rã
của đạo đức, vì sự tha hóa của tôn giáo….và vì cả cọng rau xanh ăn hàng ngày.
Xin đừng
bàng quan!
Köln ngày
23.09.2018
https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2024/08/Anti-chavez_march.jpg
Biểu
tình và bạo động là chuyện thường xuyên ở Venezuela:
Các
cuộc biểu tình chống lại Nicolás Maduro và kết quả của cuộc bầu cử tổng thống
Venezuela năm 2024
No comments:
Post a Comment