SONG
NGỮ: GẶP MỘT NGƯỜI GIA RAI Ở NỮU ƯỚC
Meeting a Jarai
Tribesman and His Wife in New York City
English version by Đinh Từ Bích Thúy
Lời Dẫn:
Dịch giả Đinh Từ Bích Thúy, Thuy Dinh, là nhà văn,
luật sư, trong Ban biên tập Da Màu. Chị là một tên tuổi quen thuộc trên các tạp
chí quốc tế: Asymptote, Prairie Schooner, Manoa, Rattle, Michigan Quarterly
Review, Santa Fe Broadside. Chị cũng là đồng dịch giả của một tuyển tập thơ của
Lâm Thị Mỹ Dạ, bởi nhà xuất bản Curbstone Press 2005.
Bản dịch Gặp một người Gia Rai ở Nữu Ước, theo tôi,
là một bản dịch công phu và đẹp. Bản dịch này đã nhận được giải thưởng đặc biệt
của tạp chí uy tín Asymptote năm 2017.
Nhân sự kiện đẫm máu ở Dak Lak gần đây, tháng 6 năm
2023, tôi nghĩ đến bài này, vì nó gợi ra cho tôi những liên tưởng, về nguyên
nhân xung đột, con đường hóa giải. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối
với các dịch giả của tôi, từ trước đến nay, trong đó có Đinh Từ Bích Thúy, Võ
Thị Như Mai, Hạnh Nguyên.
NĐT
*
1. Gặp
Một Người Gia Rai Ở Nữu Ước
Nguyễn Đức Tùng
Khi về già, bạn mắc bệnh mất trí nhớ, rồi mất
phương hướng, sau đó mất ngôn ngữ. Nếu bạn sống thật lâu, như một ngọn núi, các
chuẩn tắc đạo lý do con người đặt ra sẽ mất sau cùng.
Và theo thứ tự như vậy. Trước cửa một tiệm cà phê gần
khu vực tưởng niệm sự kiện 911, gần nền của tòa tháp đôi đổ sập, xuôi về phía
hiệu sách cũ Strand ở Broadway, nơi tôi mua được một tập thơ của Gerald Stern,
tôi gặp anh Siu Kpa, người Gia rai sáu mươi tuổi, và vợ anh. Anak Gia
rai, con của Gia rai. Hay Giơ rai, Jarai, Jrarai, Chơ rai đều được, cả hai
nói tiếng Việt, nhưng anh nói giỏi hơn. Thật ra chị là người Ba na, nghe phát
âm như Bơ na, hay Bờ na, hay Bà nà, cũng là Ba na dưới núi, Ba na trên núi, Bơ
Nâm, Bơ Môn. Cả hai đều mất trí nhớ nhưng theo hướng ngược chiều nhau.
Anh mất trí nhớ như một người già, tức là mất trí
nhớ gần, lập tức, còn chuyện quá khứ xa nhớ rõ. Chị ngược lại, không nhớ những
chi tiết quan trọng trong đời, lịch sử cá nhân, nhưng lưu giữ kiến thức gần, có
khả năng học hỏi việc trước mắt, lập tức và cần cho đời sống. Đôi khi mất
phương hướng và mất một phần ngôn ngữ. Anh có thể trong một lúc quên cả tên
mình, quên nhiều thứ cần thiết, như địa chỉ nhà mình, tên người thân, dự định
trong một giờ sắp tới, nhưng nhớ lại quá khứ xa với chi tiết chính xác, nhất là
khi đó là quá khứ tập thể, của plơi, buôn làng. Nhớ những cái khố trắng kẻ sọc,
cái khăn quấn đầu màu chàm, gọn, buông thả qua một bên, của đàn ông Gia rai. Nhớ
trang phục phụ nữ Ba na ngày hội, kẻ hoa văn đỏ, viền trắng, lòng thòng tua trắng.
Nhớ những ngọn núi buồn rầu, xanh tía, cao vút, như
cái nhìn chăm chú, càng cao lên càng xanh càng sẫm, càng buồn.
Không phải trong quán cà phê, mà trước cửa quán, họ
ngồi trên thềm nhà, ở New York bạn biết rồi, thừa không gian vỉa hè cho người
lang thang. Vợ chồng anh bị cướp nhà, bị lấy đất, bị xua đi trôi giạt như nhiều
người Tây nguyên khác. Người Gia rai theo mẫu hệ, chồng theo vợ, nhưng anh quen
một người Ba na, một chuyện hiếm gặp. Tục lệ bên dòng tộc chị hôn nhân một vợ một
chồng chung thủy, nhưng trong sinh hoạt lại tự do phóng khoáng. Đôi vợ chồng trẻ
ở luân phiên bên vợ bên chồng, có với nhau một đứa con, tám tháng, chết trên đường
chạy trốn. Trên tay chị. Con trai hay con gái? Con trai, anh bảo. Con gái, chị
bực bội cãi lại. Tôi hỏi tên cháu. Tên nó là Langanh, chị đọc là Nh’anh, thì chắc
con gái rồi. Nhưng có chắc tên đó không? Sau khi sinh con đầu lòng, cặp vợ chồng
ra ở riêng, làm một ngôi nhà nhỏ xinh bên suối. Siêng năng, làm giỏi, họ có đàn
gà đông đúc, đàn lợn ba con, có cả một con ngựa. Lông gì? Đen tuyền. Nhưng chắc
không phải thế. Màu ấy hiếm. Một con chó, phải không, màu gì, màu vàng, có đốm
trắng, không chắc, đi khập khiễng. Nhà của họ bị bọn người di dân theo kinh tế
mới từ các vùng nghèo khó, không mảnh đất cắm dùi, có máu anh chị dữ dằn, nhưng
lại sẵn sàng tuân phục hoặc hùa theo các mệnh lệnh cấp trên hơn dân thường, phá
sạch để cướp đất. Các phong tục đẹp, các thể chế cộng đồng phi chính thức, các
niềm tin và ý thức tự nguyện đồng loạt bị phá vỡ. Bị đập nát đền thờ, nhà tang
lễ, nhà Rông, nơi thờ phụng, họ đi biểu tình, đi từng đoàn, hàng trăm người,
hàng ngàn. Họ bị nghi ngờ, giải tán, đánh đập.
Và bị săn đuổi. Từ Gia lai qua Kon tum qua Đăk lăk.
Bị săn đuổi trên đèo Cheo reo, nơi phát tích của dân tộc Jrarai như những con
thú dữ, có hại, cần tiêu diệt tận gốc. Chạy vào rừng. Bị bắn. Họng súng cách
anh mười mét, bảy mét, có khi năm mét, khạc lửa, từ sau một gốc cây kơ nia vừa
bị đốn ngã, tươi rói, chảy máu vàng. Máu cây vướng lâu trên người đông lại vàng
rực như hổ phách. Một mảnh đạn xuyên suốt qua ống chân phải, nay vẫn còn đi cà
nhắc. Một mảnh đạn khác ghim trong ngực trái, đi sát tim, chạm vào ngoại tâm mạc,
sướt qua, như cái chết chơi đùa, rồi nằm im trong nhu mô phổi trái, thùy trên,
các bác sĩ để yên chưa kịp lấy ra. Qua Cambodia năm 2001, vào được trại tị nạn,
chờ ba năm, phỏng vấn, điều tra ba năm nữa, thanh lọc, năm thứ bảy, đến New
York. Chị biết làm sợi từ quả bông, biết dệt vải, biết đan, thêu thùa. Anh biết
chế thuốc chữa bệnh từ rễ cây, thuộc hết dược tính. Anh kể chuyện đi bắt ốc, cắt
đọt chuối, đẵn cây T’nưng, tìm cây chàm, đem về làm thuốc nhuộm. Mỗi khi nhớ
con, chị nằm nghiêng, co chân, gối đầu lên đùi anh, ôm cái bọc vải như ôm một đứa
trẻ con, anh hát cho chị nghe trường ca Xinh nhã, hát thuộc lòng, chị nhắm chặt
mắt, không cho ánh sáng lọt vào, khóc.
Hãy tưởng tượng một người lớn lên giữa rừng núi Tây
nguyên, giữa plơi, sáng mang gùi lên nương, mang con rựa chặt cây, chiều xuống
rẫy, chọc lỗ gieo hạt, đêm uống rưọu quanh bếp lửa, sống trong huyền ảo bia ký
Chăm pa, trong hoang dã đất rừng, bỗng một hôm thấy mình trên đường phố lập loè
chớp tắt xanh đỏ tím vàng phơi ngực phơi rốn phơi mông ở New York. Không trở về
được, mà cũng không muốn trở về, nhưng không quen hoàn cảnh mới. Con người phải
sở hữu điều gì để sống nhưng Siu Kpa không sở hữu điều gì. Không sở hữu điều
gì, cái gì, từ rất lâu, khi người miền xuôi tràn vào buôn làng, tước đi vật sở
hữu của anh, là mái nhà, sở hữu của làng, là rừng núi, sở hữu của vợ, là đứa
con trên tay. Anh làm việc lặt vặt quanh các phố và ngõ hẻm. Có một căn phòng
được chính phủ tiểu bang cấp phát cho người tị nạn để ở, nhưng anh và vợ anh,
chị Dep, không mấy khi sống ở đó, gặp gì làm nấy, gặp gì ăn nấy, không ra người
có nhà cũng không ra người không có nhà, cả hai khoảng sáu mươi tuổi nhưng còn
mạnh khoẻ. Dep là tiếng Gia rai anh đặt cho chị ở trại tị nạn, vì cả hai đã
quên mất tên chị, một cái tên Ba na đẹp, không có họ. Có một lần bối rối, tuyệt
vọng, mất trí, anh lao vào gầm một chiếc xe tải nhưng được cứu sống, từ đó lúc
nào chị cũng đi bên anh, bám sát, họ nói với nhau bằng thứ tiếng Ba na hay Bơ
na đã gần tuyệt tích không ai hiểu được.
Không ai cần hiểu. Sau những đợt phỏng vấn liên tục
ở trại tị nạn gần biên giới Cambodia- Thái lan bởi các phái đoàn nhân đạo, sau
khi đặt chân đến đất tự do, không ai có nhu cầu hỏi họ điều gì nữa. Ký ức của
chị về buôn làng, về nhà Rông của người Ba na cao đẹp, thanh thoát, về cao
nguyên, về lễ hội, chiêng trống, đàn t’rưng, ký ức của anh về cây kơ nia cao
vút tán lá rộng xòe với những chùm hoa trắng khi mưa xuân lác đác bay về, về
bóng núi âm u đại ngàn rủ xuống tâm hồn họ, lạnh tăm, trở thành ký ức tối đen,
và ký ức trở thành không cần thiết, và thời gian trở thành ký- ức- không- cần-
thiết.
Cái gì không cần thiết sẽ chết.
Trước hết nó trở nên mờ dần, loãng ra, tối tăm hơn,
mờ hơn, mịt mù. Như thị giác bị đánh mất. Ý thức khô quắt đi, co rút lại, sáng
lên một lúc, rồi tối sầm, thu gọn về. Cho đến khi có người ngồi xuống hỏi chuyện,
hình như nhờ đó đã hé ra trong anh chút kỷ niệm còn lại, và ngược lại, khai mở
bầu trời bao la của Gia rai, của lịch sử hùng vĩ và bi đát, của những tàn phá
và những tội ác của người Kinh đối với các dân tộc cao nguyên.
Nhưng chị nhớ nhất là chú ngựa và con chó, có lẽ vì
chúng chạy nhanh nhất, thoát chết. Đôi khi chị gặp con chó của chị loay hoay bới
rác ở cuối đường Fith Avenue, chị bắc tay làm loa kêu lớn, nó cong đuôi chạy mất.
Một hôm lại có người quen chỉ cho chị con ngựa, gặm cỏ trên cánh đồng bên kia
sông Hudson, dưới ráng chiều đỏ rực. Loáng cái, nó cũng biến mất, thỉnh thoảng
lại hiện ra. Những con vật cứ trở đi trở lại, phân vân do dự, không biết có nên
hài lòng chưa với vùng đất mới.
Nắng của ngày sắp tàn sau lưng tòa cao ốc xua nỗi
ám ảnh đi xa dần, làm nó, nỗi ám ảnh ấy, trở nên mát dịu, hắt cái bóng của mình
lên tường như bóng một cổ thụ hàng trăm tuổi cao lớn. Đi ngang thư thả dưới cái
bóng ấy, sau khoảng sân rộng, một con hạc trắng từ lâu không ai để ý. Có thể
ngày trước nó từng đậu xuống trên đỉnh tòa tháp đôi chọc trời sau đó bị đánh sập.
Người Việt không cần than khóc cho người Mỹ, vì núi rừng Tây nguyên chính là
tòa tháp đôi của lịch sử chúng ta. Nó bước đi trên những tảng đá, dọc theo vũng
nước nhỏ, cẩn trọng, chăm chú, nhàn tản. Từ cách tám mét, con hạc trắng lắng
nghe câu chuyện của chúng tôi. Không khí ẩm lạnh, mây bay thấp, chiếu bóng xuống
vũng nước. Có tiếng đập cánh, con hạc ngửng cổ cao, nhấc mình lên, bay là đà
qua các cửa sổ khép kín hắt ánh đèn của tòa nhà cao tầng, dang rộng hai cánh
ra, bay chậm lại nửa như lấy đà, nửa như ngẫm nghĩ, rồi đập cánh quả quyết bay
thẳng đứng lên. Bay ra khỏi cái bóng của những tòa nhà, thoát ra khỏi sức hút của
ký ức, của bóng núi trầm uất, mê muội, hoang dã, nguyên sơ, biến mất trong bầu
trời. Nó cất giọng kêu khàn khàn, mờ đục, xen lẫn có tiếng vút cao của chiêng,
cồng, đàn T’rưng, đàn Klông pút, tiếng thở dài của một người già thấu triệt lẽ
đời, bắt đầu quên, lẫn, nhưng chưa mất phương hướng. Tiếng động của thiên nhiên
và của văn hóa bị đe dọa sẽ biến mất.
Thế mà lúc chị thiu thiu ngủ, khi được nhắc lại về
cây kơ nia, vì tôi tò mò hỏi, anh chỉ tay về một cây nhỏ dựa bên rào có hoa như
hoa tường vi màu tím. Tôi lắc đầu, không phải. Anh bối rối nhưng không thay đổi
ý kiến. Tôi mường tượng nhận ra không phải chỉ là mất trí nhớ. Tôi bảo anh thử
xác định khoảng cách từ chỗ chúng tôi đứng đến cây, anh không xác định được,
nhưng đoán là năm bước. Đi năm bước, anh đưa tay sờ vào thân cây, không được, mất
đà, chúi xuống, suýt ngã, anh phải đi thêm năm bước nữa. Hụt. Mất khả năng cảm
nhận về không gian, về kích thước, về hình dạng, về khoảng cách, mất phương hướng,
là hình thức hiếm gặp của mất ký ức chấn thương có tính chọn lọc. Thêm năm bước
nữa, rồi anh cũng chạm được cả người vào nó, ôm lấy nó, như người đi đâu xa về
chưa kịp mắc áo khoác lên chiếc sừng trâu đã vội vã ôm lấy cột nhà đen mát rượi.
Nguyễn Đức Tùng
*
2. English version:
Meeting
a Jarai Tribesman and His Wife in New York City
In front of a coffee shop not too far from the 9/11
Memorial, in the direction of Strand Bookstore where I bought a poetry
collection by Gerard Stern, I met Siu Kpa, a sixty-year-old Jarai man, and Dep,
his wife. Jarai, Jrai, Gia-rai, Jrarai, and Chareye are all variations on the
name of his ethnic group, within which he would be warmly received as Anak
Jarai. Son of Jarai. Both man and wife spoke Vietnamese, but his was better.
Actually, she belonged to the Ba Na, or Bahnar, which includes both highlands and
lowlands people. Both had lost their memory, but in opposite ways.
He lost his memory the way old people tend to lose
theirs, which means he lost his short-term memory, while his long-term memory
remained intact. In contrast, she could not remember important milestones in
her own life story, but retained recently obtained knowledge and the ability to
learn the concrete concepts necessary for daily survival. At times, though, she
would lose her bearings and certain words from the Ba Na lexicon. At times he
would forget his own name and important things like his address, the names of
his loved ones, or his plans for the next hour. Yet he could recall his past in
vivid, exact detail, especially if it had to do with his plơi, the village of
his youth. He remembered the white loincloths with vertical stripes and the
indigo headdresses with side drops of the Jarai men. He remembered the festive
costumes of the Ba Na women, with abstract crimson patterns framed by white
borders and flowing tassels.
They both remembered the sad, steep, deeply purple
mountains, impassive sentinels that appear sadder and more forlorn as one’s
gaze sweeps upwards.
They were not sitting inside the coffee shop but in
front of it, on the ground. In New York, as you know, there is enough space on
the sidewalk for squatters. The man and his wife were stripped of land, home,
hearth. Like other ethnic groups from Vietnam’s central highlands, they were
forced into exile. Before this calamity, their union seemed fortuitous and
elegant in its mutual adaptability. Jarai society is matrilineal and insular,
yet he had met a Ba Na woman, a rare enough occurrence. Ba Na people, while
fiercely loyal, are free to marry outside their ethnic group and in the process
adopt other groups’ customs and habits.
The two were inseparable. They had a child, eight
months old, who died in her arms during their flight from the mountains. Boy or
girl? A boy, he said. A girl, she retorted. I asked for the child’s name.
Langanh, which she pronounced like Nh’anh—so it must have been a girl. But are
you sure that’s her name?
After their child was born, they moved out of her
parents’ home to live on their own, in a charming cottage by a mountain spring.
Hardworking and resourceful, they had chickens, three pigs, and even a horse.
What color? A black horse. Black as ink. But maybe not. Black is an unusual
color for horses in those parts of the country. A dog, too, yellow, with white
spots, perhaps, that limped. In the aftermath of the war, the couple’s home,
along with the dwellings of other ethnic minorities, was seized or razed by
Vietnamese settlers from the so-called New Economic Zone—unruly mobs forced to
emigrate to the central highlands from impoverished provinces to further the
government’s economic development policy. The highlanders’ traditional customs,
communal ways of life, beliefs, and principles of self-government were
destroyed. Their ceremonial altars, communal houses, and gravesites were
defaced. They marched in protest, in groups of tens, hundreds, and thousands.
They were disbanded, harassed, and tortured by government officials.
And hunted. From Kon Tum down to Gia-Lai onto Đắk Lắk.
Hunted like beasts on the Cheo Reo Pass, the very birthplace of the Jarai. They
ran into the forest. Were shot at. The muzzle of a gun ten, seven, sometimes
only five meters away from Siu Kpa, spitting fire, as he hid behind the trunk
of a kơ nia or wild almond tree, freshly felled, bleeding yellow sap. Yellow
sap on his body bright as amber. Shrapnel pierced his right knee, causing him
to walk with a limp, even now. Another piece of shrapnel lodged in his chest,
close to his heart, grazing his pericardium like some kind of cosmic tease,
before settling in his left lung’s superior lobe. All his doctors left it
alone, apparently not having the means or the inclination to remove it.
The couple reached Cambodia in 2001, stayed in a
refugee camp, waited for three years, had their initial asylum interview,
waited three more years, and went through more clearance procedures, before
reaching New York in their seventh year of homelessness. She knew how to make
fiber from cotton fruit, weave, knit, and embroider. He knew how to make cures
out of roots, familiar as he was with all the medicinal aspects of plants. He
recounted stories of collecting snails, harvesting young banana leaves, cutting
down bamboo, finding the indigo plant and using it as dye. Whenever she missed
their child, she would lie sideways, her legs pulled up, her head in his lap,
her arms hugging a cloth bag as if it were a live infant. He would sing to her
the Xinh Nhã song of the Ede people—their neighboring brethren in Đắk Lắk. He
remembered the song by heart. Crying softly, she would keep her eyes tightly
shut, refusing to let the light enter.
Imagine a person born and bred in the central
highlands of Vietnam, in his plơi, each morning ascending the mountain with an
axe in his woven bamboo basket to cut down trees, each afternoon descending
toward his plot of land to make holes in the ground for seedlings, each evening
drinking around the fire, living in the mythic world of the Cham oral
tradition, at home in the wildness of Southeast Asian jungles, one day finding
himself lost amidst the flashing blue, red, and yellow lights of Manhattan,
exposed yet invisible in the urban jungle. He could not go home. Did not want
to go home. But never got used to his new environment. A person has to own
something in order to live, but Siu Kpa did not own anything. For a long time,
he had not owned anything, ever since the Vietnamese—whom the ethnic minorities
call the Kinh or plains people—invaded his village and took away his home. They
took away the village’s ownership of the land. His wife lost her one and only
treasure, the baby in her arms.
Now he worked odd jobs in the city’s alleys and
streets. As refugees, they were given shelter by the government, but Siu Kpa
and Dep rarely lived there. They worked and subsisted by chance, not quite
homeless but not quite settled. At sixty, they still looked hale and hearty.
Dep is a Jarai name that he gave her while they were in the refugee camp. They
both had forgotten her real name, a pretty name in the Ba Na language, a name
without surname. One time, confused, desperate, mad, he threw himself
underneath a moving truck but was saved. From then on, she never let him out of
her sight. They spoke to each other in Ba Na, a language so close to extinction
that no one could understand them.
No one cared to understand. After the endless
rounds of interviews by humanitarian aid organizations in the refugee camp near
the Cambodia-Thailand border, no one wanted to ask them any more questions once
they arrived in the new world. What about the memories of her own village, the
lovely trapezoid shape of the Ba Na’s communal Rong house raised on stilts, of
daily life on the plateau, festival days, of pitched gongs and ceremonial
drums, the t’rưng bamboo xylophone? What about his memories of the kơ nia
almond tree with broad, boat-shaped leaves and clusters of white flowers
shivering in the soft spring rain, and the long, deep shadows cast by ancient
mountains and forests like cold, cernuous breaths upon their souls? Enshrouded,
untended, all memories became obsolete. Time, too, becomes obsolete.
Anything that’s obsolete will die.
At first his memory would slowly fade, becoming
soft and fuzzy, before dissolving into complete darkness. Like a loss of
vision. His cognitive faculties dimmed, occasionally sparked, like dying
embers, sputtering, when someone sat down and asked him questions about his
past. Questions helped unveil the flimsy screen of his memory, a fraction of
the vast Jarai horizon, its heroic and tragic history, full of havoc and
destruction wreaked by the Vietnamese against their mountain brethren.
She still remembered her horse and her dog, perhaps
because they were fast animals. They ran faster than humans and therefore
escaped death. Occasionally she saw her yellow dog in a trash heap on lower
Fifth. She made her hands into a horn and cried out for him, but he would
startle and run off, tail out straight behind him. One time an acquaintance
alerted her to a horse grazing in a field across the Hudson River, under a
blinding red sun. In an instant, the horse disappeared, then reappeared.
Animals kept leaving, then returning, undecided, hesitant, unsure if they were
happy in their new country.
The light of a dying day, refracted from a
skyscraper, soothed the couple’s flickering doubts and transformed them into
undulating shadows of a colossal, centuries-old banyan tree. Beneath that
giant, swaying shade, in a vast courtyard, a white crane ambled that might
have, at one time, landed on top of the now-destroyed Twin Towers. The crane
meandered among the rocks by a small fountain, cautious, alert. From eight
meters away, it stopped to listen to our conversation.
The air turned cold and damp. The clouds descended,
casting their shadows on the water. There was a rustling of wings. The crane
raised its neck, lifted its body, and drifted past the lighted windows of the
skyscraper, then spread its wings, slowed as if to gather its strength and
consider its position, then flapped its wings and flew straight up, away from
the shadows of the skyscrapers, away from the pull of memory, away from the
shadows of the silent, foreboding, untamed, and illusory mountains, before
being engulfed by the vastness of the sky. We heard the crane, its low,
guttural, raucous cry harmonizing with the high-pitched sounds of cymbals,
gongs, t’rưng and k’lông pút xylophones, and the deep sighs of beings who
understood the ways of life, who had begun to forget, or become confused, but
had not quite lost their bearings. From this mélange of sounds, the laments of
nature and a threatened civilization gradually subsided.
As his wife drifted off to sleep, I asked Siu Kpa
about his kơ nia tree. He pointed toward a small bush next to a fence. It had
delicate lavender flowers that resembled Japanese Ejitsu roses. I shook my
head. He became flustered but refused to waver. It suddenly dawned on me that
memory was not the only thing he had lost.
I asked him to estimate the distance between us and
the flowering bush. At first, he could not do it, then guessed it was about
five steps. After walking five steps, he extended his arm in an attempt to
touch the bush, met air, lost his balance, pitched forward, and had to walk
five more steps. Still missed his mark. The loss of the ability to measure
spatial distance was a rare symptom among those already afflicted with
selective memory loss. Five more steps and he finally reached the bush, hugging
it tight, and, like someone returning home from years of travel, without
hanging up his coat, ran headlong to embrace the cool smooth black surface of
his house beam.
translated from the Vietnamese
by Thuy Dinh
Read translator's note
Read bios
A.
Nguyễn Đức Tùng was born in Quảng Trị, Central Vietnam, and is a Vietnamese-Canadian
poet, literary critic, translator, and physician based in Vancouver, British
Columbia. After fleeing Vietnam as a boat person, he settled in Canada in the
1980s and graduated from McMaster University. He specialized in general and
emergency medicine, and completed residencies at the University of Toronto and
the University of British Columbia. He has published Những Câu Chuyện về Sức Khỏe
(Stories on Health, 2003); Đối Thoại Văn Chương với Trần Nhuận Minh (Literary
Conversations with Trần Nhuận Minh, 2012); and Thơ Cần Thiết Cho Ai (Who Needs
Poetry: Essays and Criticism, 2015). In addition, he has edited the following
poetry anthologies: Thơ Đến Từ Đâu (Where Does Poetry Come From, 2010), and Bốn
Mươi Năm Thơ Việt Hải Ngoại (Forty Years of Vietnamese Poetry in Exile, 2017).
His fiction, memoirs, and essays have appeared on several Vietnamese literary
websites, such as Da Màu (Multitude), Tiền Vệ (Vanguard), Văn Việt (Vietnamese
Arts and Letters), and Diễn Đàn Thế Kỷ (Century Forum).
B.
Thuy Dinh is coeditor of the Vietnamese literary e-zine Da Màu. Her poetry
translations have appeared in Asymptote, Prairie Schooner, Manoa, Rattle,
Michigan Quarterly Review, and Santa Fe Broadside, among others. Green Rice,
her co-translation of the selected poetry of Lâm Thị Mỹ Dạ, was published by
Curbstone Press in 2005, and nominated for the Kiriyama Prize in 2006.
Photos:
1. Một người đàn ông Gia-rai
(nguồn: luật khoa tạp chí)
https://www.facebook.com/photo/?fbid=2152179674986449&set=pcb.2152179038319846
2. Dịch giả Đinh Từ Bích Thúy
https://www.facebook.com/photo/?fbid=2152179744986442&set=pcb.2152179038319846
.
Thật tội nghiệp cho họ ! Quê hương là một cái gì thiêng liêng sâu lắng
lắm ! Cứ người Kinh đi gần đến là họ
lại chuyển sát vào chân núi , suối sâu , họ rất sợ người Kinh , cha tôi xưa làm
rừng thuê rất nhiều người Thượng và họ rất thật thà khi rỗi rảnh đàn bà chỉ
biết tìm từng cánh nấm phơi khô bụp măng xẻ khô Nai … khi đã tâm phục họ rất
trung thành… xưa (thời VNCH) luôn
có câu Kinh Thượng một nhà . Chính quyền luôn ưu đãi nên có Bộ Phát triển sắc tộc … nâng đỡ hoc sinh vào đại học … nay thì đất
họ (VNCS)
cũng muốn chiếm hữu bằng cách mua với giá mạt hạng … cũng như năm 1998 chúng tôi cũng bị
áp bức nhà thâu rẻ và sau đó phân lô những chung cư mọc lên ko còn đường quay về
mơ một mái nhà đơn giản …
No comments:
Post a Comment