CHÍNH
SÁCH “MỘT TRUNG QUỐC” ĐÃ LỖI THỜI
Chính Sách
“Một Trung Quốc” (One China Policy) bắt nguồn từ chiến lược hòa hoãn với Trung
Quốc của TT Richard Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger.
Trong tiểu
luận quan trọng “Á Châu Sau Việt Nam” (Asia After Vietnam) đăng trên tạp chí uy
tín Foreign Affairs tháng 10, 1967, Richard Nixon cho rằng song song với việc
giải quyết chiến tranh, phát triển kinh tế trong khu vực cũng quan trọng không
kém. Theo tác giả, nói đến Á Châu không thể bỏ qua vai trò của bốn quốc gia ảnh
hưởng gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và Hoa Kỳ (cường quốc Thái Bình Dương). Tất
cả nên được bắt đầu bằng việc thiết lập quan hệ với Trung Cộng. (Foreign
Affairs, Vol. 46, No. 1, Oct., 1967))
Khi được bầu
vào tòa Bạch Ốc, TT Nixon tiến hành hai mục đích nầy. Chuyến viếng thăm Trung
Quốc của TT Nixon, kết thúc bằng Thông Cáo Chung Thượng Hải, 27 tháng 2, 1972,
đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế chưa từng có tại Á Châu.
Theo nội
dung của Thông Cáo Chung Thượng Hải, Trung Cộng khẳng định: (1) Chính phủ Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc; (2) Đài
Loan là một tỉnh của Trung Quốc; (3) việc giải phóng Đài Loan là việc nội bộ của
Trung Quốc mà không nước nào có quyền can thiệp; và (4) tất cả các lực lượng và
cơ sở quân sự của Hoa Kỳ phải được rút khỏi Đài Loan."
Phía Hoa Kỳ:
(1) thừa nhận Đài Loan là một phần của Trung Quốc, (2) khẳng định mối quan tâm
của Hoa Kỳ đối với việc giải quyết vấn đề Đài Loan một cách hòa bình bởi chính
người Trung Quốc, (3) đồng ý mục tiêu cuối cùng là việc rút tất cả các lực lượng
và cơ sở quân sự của Hoa Kỳ khỏi Đài Loan. (Wilson Center, Joint Communique
between The United States and China, 1972)
Đòi hỏi của
Trung Cộng rất rõ ràng nhưng đáp ứng của Hoa Kỳ lại khá mơ hồ.
Năm 1979,
chính phủ Jimmy Carter bước thêm một bước nữa trong quan hệ ngoại giao với
Trung Cộng khi thừa nhận “Chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là chính phủ hợp
pháp duy nhất”. Điều này có nghĩa Trung Hoa Dân Quốc không phải là một quốc gia
có chủ quyền độc lập. TT Jimmy Carter tuyên bố ý định thiết lập quan hệ ngoại
giao hoàn toàn với Trung Cộng vào ngày 1 tháng 1, 1979 và hai nước sẽ trao đổi
đại sứ vào ngày 1 tháng 3 cùng năm.
Đặng Tiểu
Bình viếng thăm thiện chí Hoa Kỳ vào tháng Giêng, 1979. Đặc biệt, ngoài việc thảo
luận các quan hệ giữa hai nước, họ Đặng tiết lộ cho TT Carter biết Trung Cộng sẽ
đánh Việt Nam. TT Carter thuyết phục Đặng Tiểu Bình không nên dùng biện pháp võ
lực, nhưng không thành công.
Trong văn
kiện tái lập quan hệ ngoại giao 1979, Hoa Kỳ thừa nhận quan điểm của Trung Cộng
khi Trung Cộng cho rằng chỉ có một Trung Quốc và Đài Loan là một phần của Trung
Quốc. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chính phủ Hoa Kỳ công nhận Trung Cộng
có chủ quyền trên Đài Loan. Nguyên văn tiếng Anh của mệnh đề quan trọng này: “The government of the United States of
America acknowledges the Chinese position that there is but one China and
Taiwan is part of China.”
“Thừa nhận” (acknowledge) khác với “công nhận”
(recognize). Chính phủ
Hoa Kỳ “thừa nhận” quan điểm của Trung Quốc cho rằng Đài Loan là một phần của
Trung Quốc nhưng không hàm ý “công nhận” Đài Loan là một phần của Trung Quốc.
Chính phủ Hoa Kỳ mong muốn tranh chấp giữa Trung Cộng và Đài Loan được giải quyết
bằng phương pháp hòa bình.
Phái đoàn
Trung Cộng muốn sửa lại nội dung văn kiện để thay từ “thừa nhận” thành “công nhận”
nhưng phái đoàn Hoa Kỳ không đồng ý. Vì muốn thỏa hiệp được ký kết nhanh, phái
đoàn Trung Cộng không tiếp tục giằng co với trò chơi chữ của Mỹ. (Michael J.
Green,What Is the U.S. “One China” Policy, and Why Does it Matter?, Center for
Strategic and International Studies, 2017)
Trong thời
điểm đó, Dân biểu Clement John Zablocki,
Chủ Tịch Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện Hoa Kỳ là người có quan điểm chống CS cứng rắn
thuộc đảng Dân Chủ, quận 4 tiểu bang Wisconsin. Ông rất nhạy bén khi hình dung
viễn ảnh không sáng sủa của Đài Loan nên đã bảo trợ một dự luật nhằm bảo vệ an
ninh của Hoa Kỳ và quyền lợi kinh tế Đài Loan sau này. Dự luật là một hợp tác
lưỡng đảng và được hoàn thành trong một thời gian rất ngắn. Dân biểu Zablocki
giới thiệu dự luật ngày 28 tháng 2, 1979.
Đạo
luật có tên là Đạo Luật Quan Hệ Đài Loan (Taiwan Relations Act) ra đời. Mặc dù Mỹ đã đóng tòa đại sứ tại Đài
Loan nhưng đạo luật này cho phép thiết lập Viện Hoa Kỳ tại Đài Loan, một hình
thức khác của tòa đại sứ. Đạo luật này yêu cầu tổng thống phải tức khắc thông
báo với quốc hội mọi biến cố có ảnh hưởng đến an ninh của Đài Loan. Quan trọng
nhất, đạo luật nhấn mạnh Hoa Kỳ sẽ cung cấp Đài Loan với võ khí có đặc tính
phòng thủ và sẽ duy trì khả năng của Hoa Kỳ chống lại bất cứ biện pháp nào dùng
vũ lực hay hình thức cưỡng bách nào khác có thể gây nguy hiểm cho an ninh hay hệ
thống xã hội hoặc kinh tế của nhân dân Đài Loan”. (H.R.2479 — 96th Congress
(1979-1980))
Dĩ nhiên
Trung Cộng phản đối Đạo Luật Quan Hệ Đài Loan và xem đó là hành động đơn phương
của Mỹ, vi phạm các nguyên tắc ngoại giao quốc tế và nhất là “vi phạm những cam
kết của Hoa Kỳ với Trung Cộng”.
Hoa Kỳ
không vi phạm các cam kết với Trung Cộng. Các lãnh đạo Trung Cộng quên rằng, bộ
máy độc tài chuyên chính tập trung CS không chạy giống như bộ máy của các nền
dân chủ phân quyền. Trong chính trị Mỹ, ba ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp
hoạt động độc lập, sinh động, chẳng những không mâu thuẫn nhau mà có tác dụng bổ
khuyết nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền dân chủ để đáp ứng mọi tình huống
trước mắt cũng như lâu dài.
Cơ chế dân
chủ Mỹ là cánh đồng phì nhiêu có nhiều thảo mộc, cây trái, hoa màu. Trên cánh đồng
đó từng đó một George F. Kennan, một viên chức cấp thấp làm việc tại tòa đại sứ
Hoa Kỳ ở Liên Xô đã trở thành cha đẻ của “lý thuyết ngăn chặn” kéo dài 45 năm
qua nhiều thời tổng thống. Nếu làm việc dưới chế độ quan liêu CS, các đề nghị của
anh cán bộ George F. Kennan đã đi vào ngăn kéo hay thùng rác.
Nếu không
có Đạo Luật Quan Hệ Đài Loan, số phận Đài Loan ngày nay cũng chẳng khác gì Hong
Kong. Đạo luật này mở ra nhiều cánh cửa cho quan hệ giữa Đài Loan và Hoa Kỳ đồng
thời dự phòng nhiều trường hợp để các chính phủ Hoa Kỳ sau đó có thể giải thích
và áp dụng tùy theo tình huống.
Nhắc lại,
trong Thông Cáo Chung thứ ba giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng ngày 17 tháng 8, 1982,
Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng “Hoa Kỳ không tìm kiếm một chính sách dài hạn bán vũ khí
cho Đài Loan”. Tuy nhiên, TT Ronald Reagan lại gởi riêng cho TT Tưởng Kinh Quốc
“sáu bảo đảm” trong đó khẳng định Hoa Kỳ chỉ giảm việc bán vũ khí cho Đài Loan
với điều kiện Trung Cộng cam kết theo đuổi một giải pháp hòa bình cho xung đột
Eo Biển Đài Loan. Lần nữa, TT Reagan áp dụng Đạo Luật Quan Hệ Đài Loan. Văn bản
của TT Reagan gởi Tưởng Kinh Quốc đã được giải mật năm 2020.
Hôm 23
tháng 5, 2022 tại Tokyo, khi được hỏi liệu Hoa Kỳ có dùng vũ lực để bảo vệ Đài
Loan trong trường hợp Đài Loan bị tấn công, TT Joe Biden trả lời ngay “Yes” và
sau đó giải thích thêm cũng trong tinh thần của Đạo Luật Quan Hệ Đài Loan:
“Chúng tôi đồng ý với chính sách ‘Một Trung Quốc’. Chúng tôi ký vào đó, và các
bên đồng ý từ đó, nhưng ý tưởng thực hiện bằng vũ lực là không thích hợp.”
Điều đó cho thấy quan điểm “Một Trung Quốc” của
Hoa Kỳ khác với quan điểm “Một Trung
Quốc” của các lãnh đạo Trung Cộng từ Đặng Tiểu Bình tới Tập Cận Bình.
Các tổng
thống Mỹ dù Jimmy Carter, Dân Chủ, hay sau đó là Ronald Reagan, Cộng Hòa, đều
xem việc bảo vệ Đài Loan là quan trọng không chỉ về quyền lợi kinh tế mà quan
trọng hơn là an ninh tại Á Châu.
Quan điểm
lưỡng đảng về Đài Loan đó từ 1979 đến nay không thay đổi.
Mở ngoặc một
chút về sinh hoạt lưỡng đảng của Mỹ. Khái niệm đảng trong sinh hoạt chính trị
Hoa Kỳ hoàn toàn khác với khái niệm đảng dưới chế độ CS. Tổng thống thuộc đảng
Cộng Hòa đã đánh gục Liên Xô trong Chiến Tranh Lạnh là Ronald Reagan nguyên là
một đảng viên đảng Dân Chủ. Nhà chính trị nổi tiếng và từng là ứng cử viên tổng
thống đại diện cho đảng Dân Chủ là Hillary Clinton nguyên là đảng viên đảng Cộng
Hòa. TT Donald Trump nguyên là đảng viên đảng Cộng Hòa, sau đổi sang đảng Cải
Cách (Reform Party), rồi đổi tới đảng Dân Chủ và đổi về lại Đảng Cộng Hòa.
Trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ từng thay đổi toàn
bộ nguyên tắc chỉ đạo (platforms). Đảng Cộng Hòa bảo thủ ngày nay trước đây là
đảng có tinh thần tự do, cấp tiến. Tổng thống thuộc đảng Cộng Hòa Abraham
Lincoln là người chủ trương giải phóng nô lệ và bảo vệ người da đen trong khi đảng
Dân Chủ lại chống đối việc mở rộng quyền của chính phủ liên bang. Chủ thuyết
Monroe (Monroe Doctrine) mang tên tổng thống James Monroe do lúc đó là Ngoại
trưởng John Quincy Adams soạn, chủ trương “Mỹ châu của người Châu Mỹ” ra đời
năm 1823. Gần 200 năm sau qua nhiều đời tổng tống dân chủ lẫn cộng hòa nhưng mỗi
khi có một biến động chính trị ở châu Mỹ, chẳng hạn khủng hoảng chính trị của
Venezuela hiện nay, chủ thuyết này vẫn còn được đem ra bàn. Do đó, một người Việt
trong nước hay gốc Việt ngoài nước nếu thật sự quan tâm đến tương lai dân chủ của
Việt Nam thì nên tính táo, khôn ngoan để vận dụng mọi chính sách đối ngoại của
các cường quốc dân chủ vào cuộc đấu tranh chung và không nên quá đặt nặng việc
tổng thống Mỹ thuộc đảng nào.
Trở lại với chuyện “Một
Trung Quốc”. Đài Loan, về mặt lãnh thổ, có thể là một phần của Trung Quốc nhưng
23.6 triệu người Đài Loan không phải là dân của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa dưới sự cai trị của đảng CS Trung Quốc đứng đầu là Tập Cận Bình.
Đất nước
không chỉ là núi, đồi, sông, biển, ruộng, vườn, cây, trái v.v… mà trên tất cả
là con người với những khát vọng, ước mơ và lý tưởng của thời đại họ. Và do đó,
không ai có quyền định đoạt sinh mệnh của 23.6 triệu người dân Đài Loan ngoài
chính họ.
Con người
hôm nay là con người đang bước đi trong thời đại với các giá trị đạo đức và văn
minh được chính họ sáng tạo, phát minh hay chọn lựa. Nếu tách rời đặc tính thời
đại ra khỏi định nghĩa một dân tộc thì dân tộc đó chẳng khác gì một bộ lạc sống
đời sống nguyên thủy trong các rừng nhiệt đới ở Ba Tây.
Chính vì
phát triển phù hợp với xu hướng thời đại mà Tây Đức trở nên một cường quốc ngay
trong thời kỳ bị chia cắt. Thủ tướng Konrad Adenauer, giống như nhiều người dân
Đức khác, rất mong được thấy một nước Đức thống nhất sau Thế Chiến Thứ Hai. Tuy
nhiên, ông khẳng định nếu thống nhất để rồi nước Đức trở thành một nước CS hay
“trung lập dẫn đến CS” đi ngược với xu hướng thời đại ông sẽ chống.
Khát vọng của con người
xác định cho tương lai họ chứ không phải do ý thức hệ áp đặt từ bên ngoài hay
do sức mạnh của một nhóm người từ bên trong giữ chìa khóa nhà tù.
Adenauer
nhận ra rằng nước Cộng Hòa Liên Bang Đức chỉ có thể giành lại tự do và thịnh vượng
nếu là một phần của châu Âu rộng lớn hơn với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ. Tây Đức
nhận của Mỹ gần 1.4 tỷ dollar trong Kế Hoạch Marshall (Marshall Plan)để giúp nước
Đức đứng lên từ đống tro tàn nhưng không ai tố cáo Hoa Kỳ là “thực dân mới đế
quốc Mỹ” như mấy cái loa tuyên truyền rỉ rả suốt ngày ở Việt Nam.
Chỉ sau một
thời gian ngắn phát triển Tây Đức được xem như là một phép lạ kinh tế, trở
thành hội viên của NATO và Cộng đồng kinh tế Âu Châu. Konrad Adenauer viếng
thăm Liên Xô năm 1955 với tư cách một nguyên thủ quốc gia chứ không phải đại diện
cho một nước Đức bại trận hay một chư hầu của Mỹ.
Hai nước Bắc
Hàn và Việt Nam cũng bị chia cắt trong thời gian đó. Kim Nhật Thành thăm Liên
Xô tháng 3, 1949 để cố thuyết phục Stalin cho phép ông ta xua quân chiếm Nam
Hàn và thiết lập chế độc tài CS trên toàn cõi Triều Tiên. Cái gật đầu của
Stalin ngày 30 tháng 5, 1950 dẫn đến ít nhất 3 triệu người bị giết. Tương tự, Hồ
Chí Minh và Lê Duẩn thăm Trung Cộng và Liên Xô nhiều lần cũng chỉ với mục đích
duy nhất là mong Trung Cộng và Liên Xô cung cấp súng đạn để họ đưa quân vào cưỡng
chiếm miền Nam và thiết lập chế độ CS trên phạm vi cả nước. Tham vọng CS hóa đó
đi ngược lại ước vọng của người dân miền Nam. Hậu quả là nhiều triệu người chết
trong chiến tranh và đất nước đi vòng quanh trong ngõ cụt lạc hậu và chậm tiến
từ đó đến nay.
Sau khi lệnh
“Thiết Quân Luật” (Martial Law) được hủy bỏ vào tháng 5, 1991, chính phủ và người
dân Đài Loan đã đưa đất nước vươn lên cao trong nhiều lãnh vực nhất là tự do,
dân chủ và nhân quyền.
Theo kết
quả xếp hạng của Economist Intelligence Democracy Index 2021, Đài Loan là một
trong 21 quốc gia dân chủ toàn diện (full democracy) trên thế giới. Một quốc
gia được xếp vào hạng dân chủ toàn diện phải đạt số điểm cao nhất trong 5 lãnh
vực: (1) đa đảng và bầu cử tự do, (2) tự do dân sự, (3) chức năng chính phủ,
(4) tham gia chính trị và (5) văn hóa chính trị. Với kết quả vượt trội đó, Đài
Loan còn dân chủ hơn cả Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ và nhiều nước
tiên tiến khác.
Cũng theo
Economist Intelligence Democracy Index 2021, Trung Cộng cùng với CSVN, Bắc Hàn,
Lào, Cuba, Afghanistan và một số nước Phi Châu độc tài bị liệt vào nhóm “Chuyên
chế” (Authoritarian).
Economist
Intelligence dành một phần khá dài để phân tích trường hợp Trung Cộng. Trung Cộng
là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, nhưng nền kinh tế lớn
không đem lại hạnh phúc cho con người. Giá trị của một quốc gia khi đem ra so
sánh với các quốc gia khác không đặt trên cơ sở nền kinh tế mà là đạo đức và đời
sống của người dân. Một con người phải có quyền sống một cuộc đời đáng sống.
Trong tiêu
chuẩn “đa đảng và bầu cử tự do”, Trung Cộng và CSVN đều lãnh ba trứng gà
(0.00). Với sỉ nhục quốc tế đó, Trung Cộng không có quyền gì, không có tư cách
gì để áp đặt một chế độ phi nhân, lạc hậu lên 23.6 triệu người tự do tại Đài
Loan. (Democracy Index 2021, The China challenge, Economist Intelligence)
Hôm 1
tháng 8, 2022, Chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi thăm Đài Loan. Chuyến viếng
thăm ngắn nhưng đã gây nhiều tiếng vang khắp thế giới và phản ứng quyết liệt
kèm theo nhiều đe dọa từ phía Trung Cộng. Nhưng ngoài việc gởi một số chiến đấu
cơ xâm phạm không phận Đài Loan, Trung Cộng không thể có một hành động trả đũa nào
cụ thể.
Trung Cộng
làm gì với những chiến đấu cơ đó? Dám bắn không? Hình ảnh quân đội Nga đang khốn
đốn ở Ukraine là một nhắc nhở hãi hùng cho quân đội Trung Cộng, một quân đội
đang mắc “bệnh hòa bình” vì 43 năm chưa ra trận.
Như người
viết đã phân tích trước đây, quan hệ và mậu dịch kinh tế chằng chịt, không chỉ
giữa Trung Cộng và Đài Loan mà còn Trung Cộng, Đài Loan, Mỹ, Châu Âu và khối
các nước đang phát triển. Vì thế, dù có đánh nhau với Đài Loan và ngay cả trong
trường hợp Mỹ đứng ngoài, nền kinh tế Trung Cộng cũng sẽ thiệt hại nặng nề nếu
không muốn nói là phá sản. Bài học Liên Xô cho họ Tập thấy, phá sản kinh tế sẽ
tức khắc dẫn tới phá sản cơ chế chính trị.
Nhưng tại
sao Tập hung hăng? Hai lý do. Thứ nhất, Tập muốn tạo một không khí chiến tranh
để áp đảo tinh thần các thành phần chống Tập còn mạnh trong nội bộ đảng CSTQ
trước khi ông ta bước vào nhiệm kỳ 3 tại đại hội đảng lần thứ 20 vào tháng 11
này. Thứ hai, Tập tiếp tục đun sôi chảo dầu đại Hán để giữ “niềm tin vào đảng”
và để đánh lạc hướng lòng công phẫn của người dân sang phía Mỹ thay vì tập
trung vào ông ta.
Việc làm ồn
lên của Tập chỉ làm trò cười cho thiên hạ và góp phần quảng cáo cho chuyến viếng
thăm Đài Loan của bà Nancy Pelosi.
Công ty
Aviation-tracking vừa cho biết chuyến bay của bà Pelosi thu hút lượng người
theo dõi trực tuyến chưa từng có. Nếu Tập khôn ngoan hơn có lẽ nên im lặng hay
lấy một bài bình luận từ một tờ báo cũ ra đăng rồi cho qua.
Tập Cận
Bình chỉ giỏi ăn hiếp những nước cô thế, không đồng minh, lệ thuộc tư tưởng như
CSVN hay các con nợ nghèo như Sri Lanka, Kyrgyzstan, Pakistan nhưng với Mỹ thì
Trung Cộng chưa phải là đối thủ.
Thời đại
ngày nay là thời đại tự do dân chủ và tự quyết. Người dân Ukraine đang chiến đấu
vì quyền tự quyết của họ và người dân Đài Loan chắc chắn sẽ đứng lên chiến đấu
cho quyền tự quyết của mình nếu bị tấn công.
Các cuộc
cách mạng tại Đông Âu và Bắc Phi cho thấy dân chủ là khúc khải hoàn ca đang được
phần đông nhân loại cất lên và là xu hướng của thời đại.
Chính sách
“Một Trung Quốc” là sản phẩm của Chiến Tranh lạnh và với đà tiến văn minh ngày
nay, chính sách đó đã lỗi thời.
Trần Trung Đạo
Ảnh: https://www.facebook.com/photo/?fbid=480107070785027&set=a.124728546322883
Chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi
và Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn (Tsai Ing-wen)
.
Thứ 1,như mọi lần, cảm ơn tác giả về bài viết rất công
phu như mọi khi : đưa ra luận điểm nào đều có dẫn chứng cụ thể, rõ ràng, tham
chiếu và có đầu có cuối
Thứ 2, nội dung bài viết rất có tính thời sự
Xin mạn phép tác giả góp thêm đôi lời (đúng ra là tán rộng
thêm dựa trên ý tưởng của tác giả
1 - Đài Loan thật sự đã gây ấn tượng mạnh với người Việt
và thế giới văn minh từ lâu, đặc biệt, khi có một nữ Tổng thống đáng tự hào là
bà Thái Anh Văn 蔡英文
Tsai Ing-wen
Kể từ khi dịch cúm Tàu bùng phát ra toàn cầu, Đài Loan đã
khuyến khích các doanh nghiệp tập trung sản xuất khẩu trang y tế (không phải khẩu
trang thông thường). Số khẩu trang sản xuất dư thừa đã được Đài Loan TẶNG cho
các nước đang khốn đốn với khẩu hiệu #TaiwanCanHelp.
Riêng bà Tổng thống, đến Phó tổng thống, Thủ tướng,...công
khai và truyền hình trực tiếp chích vaccine nội địa do Đài Loan tự sản xuất # hẳn
với Đông Lào, chỉ thấy "cháu ông ngoại, em ông nội, cô em kết nghĩa của
cán bộ,...khoe ầm ĩ ĐƯỢC chích vaccine Mỹ (Pfizer)", còn dân ĐƯỢC chích
"vaccine tốt nhất là vaccine sớm nhất"
2 - Khi Nga chính thức nổ súng vào Ukraine, Tổng thống
Đài Loan Thái Anh Văn đã ra tuyên bố – thông qua người phát ngôn – lên án hành
động của Nga là “vi phạm chủ quyền của Ukraine” và "kêu gọi các bên giải
quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình và lý tính."
Ngày 25/2, tức một ngày sau khi Nga chính thức xâm lược
Ukraine, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan) đã ra tuyên bố “lên án mạnh
mẽ cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine” và “tham gia các nỗ lực trừng phạt Nga”.
Tuyên bố không quên nhắc nhở rằng "Đài Loan là một thành viên của liên
minh dân chủ thế giới, luôn bảo vệ các giá trị tự do, dân chủ, pháp quyền và
nhân quyền phổ quát."
Trên các trang fanpage của bà tổng thống lẫn Bộ Ngoại
giao Đài Loan liên tục đăng các bài có hashtag #StandWithUkraine (Ủng
hộ Ukraine) và #StopRussianAggression (Chấm
dứt hành vi xâm lược của Nga).
Không nói suông, Đài Loan gửi 27 tấn vật tư y tế tới
Ukraine vào đêm ngày 28/2, tức chỉ bốn ngày sau khi chiến tranh bắt đầu. Các
kênh truyền thông của chính phủ phát đi thông điệp quen thuộc có từ thời
COVID-19: “Taiwan Can Help” (Đài Loan có thể giúp bạn).
Với chừng ấy động thái, Đài Loan chọn phe rất rõ ràng.
Chưa hết, ở trong nước, Bộ Giáo dục nước này lập tức yêu
cầu các trường đại học hỗ trợ sinh viên Ukraine đang theo học ở đây. Có 72 sinh
viên như vậy và nguồn tài chính hỗ trợ họ từ quê nhà có thể đã bị gián đoạn do
chiến tranh.
Các nghị sĩ Đài Loan cũng thúc giục chính phủ có chính
sách hỗ trợ thị thực cho những người Ukraine đang sinh sống ở đây. Đáp lại, Bộ
trưởng Nội vụ cho biết người Ukraine chỉ cần đăng ký gia hạn thị thực thì sẽ được
gia hạn không giới hạn số lần.
3 - Đài Loan đã trải qua đấu tranh, mất mát, đau thương để
trở thành ngọn cờ dân chủ hàng đầu châu Á chứ không dễ dàng gì.
Thất bại trước Cộng sản, Tưởng Giới Thạch áp dụng đúng mô
hình cai trị độc tài của kẻ thù.
Một quá trình cải tổ kéo dài gần 27 tháng bắt đầu từ
tháng 8/1950, lấy chủ nghĩa Tam Dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh
hạnh phúc) của nhà sáng lập Tôn Trung Sơn làm hệ tư tưởng của đảng; tăng cường
tập trung quyền lực vào Tưởng Giới Thạch và Ban chấp hành Trung ương Đảng; tăng
cường kỷ luật đảng; thành lập các chi bộ, đảng bộ đảng ở mọi cấp chính quyền và
các tổ chức quần chúng; kiểm tra lại lý lịch đảng viên và kết nạp đảng viên mới;
và kết nạp, đào tạo cán bộ nòng cốt của đảng.
Vào những năm 1950 và 1960, Đài Loan không có bầu cử cấp
quốc gia. Chỉ có bầu cử ở cấp làng xã, thị trấn, quận huyện, và tỉnh thành. Cần
lưu ý, khi đó Quốc Dân Đảng vẫn tổ chức chính quyền dựa trên giả định họ là đảng
hợp pháp duy nhất của toàn bộ Trung Quốc, và Đài Loan chỉ là một tỉnh trong đó.
Do vậy, chính quyền tỉnh Đài Loan cũng được lập ra qua bầu cử và vẫn được tính
là bầu cử địa phương. Các cuộc bầu cử, dĩ nhiên, được thiết kế để người của Quốc
Dân Đảng thắng. Rất ít khi người bên ngoài thắng.
Kể từ cuộc bầu cử năm 1969, phong trào đối lập tangwai (đảng
ngoại – ý chỉ những người không nằm trong Quốc Dân Đảng) ra đời và đưa người
tranh cử cả ở cấp địa phương lẫn trung ương. Họ giành được nhiều ghế ở các cấp,
bao gồm cả ghế thị trưởng ở một số nơi, mặc dù vẫn chỉ là phe thiểu số rất nhỏ
bé trong các cơ quan lập pháp. Phong trào này được cho là một đảng đối lập
không chính thức. Về sau, những thành viên của phong trào lập ra đảng đối lập đầu
tiên ở Đài Loan vào năm 1986, Dân Tiến Đảng. Đây chính là đảng mà cho tới nay
đã đưa được hai người vào ghế tổng thống: Trần Thủy Biển và Thái Anh Văn.
Đôi lời góp nhặt.
Trân trọng,
Ảnh : https://www.facebook.com/photo.php?fbid=7757400577634571&set=p.7757400577634571&type=3
Các thành viên của phong trào đối lập biểu tình tại Đài Bắc
vào ngày 27/9/1986, phản đối một bản án trước đó dành cho một nghị viên phe đối
lập vì dám chất vấn quan chức chính quyền. Nguồn: peoplenews.tw.
No comments:
Post a Comment