11/07/2022
https://www.danchimviet.info/26557-2/07/2022/26557/
Đất nước
Nauy. Ảnh Google
Từ ngày về
hưu, sang sống với mấy cô con gái ở Cali, mỗi năm cứ đến đầu mùa hè, vợ chồng
tôi đều trở về Nauy thăm con cháu và mấy người bạn tù cùng vượt biển đến định
cư ở xứ Bắc Âu này. Ba năm rồi, vì dịch Covid-19, nên mãi đến hè này, chúng tôi
mới về lại được.
Tháng sáu,
trời Nauy nắng đẹp. Ban ngày không nóng lắm, về đêm không khí càng se lạnh
nhưng gần như không bao giờ tối, nửa đêm vẫn còn le lói ánh mặt trời. Nauy được
gọi là “Vùng Đất Mặt Trời Lúc Nửa Đêm” hay xứ Bạch Dạ (Đêm Trắng). Đặc biệt vào
tiết Hạ chí, ngày 23 tháng
6, có thể nói đó là một ngày không có ban đêm, mặt trời lặn lúc 12 giờ
đêm và mọc lên lại lúc 2 giờ sáng, cũng là ngày dài nhất trong năm. Người Nauy
gọi buổi tối đặc biệt này là Sankthans. Và theo tập tục, người ta thường kéo
nhau ra ngoài trời đốt lửa, ăn uống múa hát cho đến 3, 4 giờ sáng.
https://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2022/07/1234-300x120.jpg
Đốt lửa
vào ngày hạ chí
Về lại đây
đã hơn mười ngày rồi mà người tôi vẫn còn vật vờ, ngủ gà ngủ gật, vì qua một chuyến
bay khá dài, múi giờ lại khác nhau đến chín tiếng đồng hồ, nên cứ nằm dài trên
phòng khách xem các trận quần vợt và bóng tròn tranh giải Âu châu.
Bất ngờ tiếng
chuông cửa reo. Một ông bạn già láng giềng người bản xứ khá thân đến rủ tôi ra
ngoài vui chơi cùng với gia đình anh và một số người bạn láng giềng khác. Anh
ta vỗ vai tôi đùa:
– Ông bỏ
Nauy đi lâu quá rồi, giờ thì phải ra trình diện bà con. Hôm nay là Sankthans của
Nauy đấy. Nhiều người cứ tưởng ông quên luôn cái đất nước nhỏ bé đã từng cưu mang
gia đình ông rồi đấy!
Định tìm
cách từ chối, nhưng nghe anh ta nói đùa câu này, tôi thấy hơi chột dạ, hơn nữa
cũng muốn gặp lại mấy người láng giềng tốt bụng dễ thương đã từng sống gần họ
hơn mấy mươi năm, tôi vội khoác chiếc áo gió đi theo anh ta, mang theo một
thùng bia Heineken và dúi vào tay anh ta một chai rượu đỏ của cậu con trai vừa
mới biếu.
Trên một
bãi cỏ khá lớn nằm ngay phía sau khu chung cư, bên một triền đồi, đã có đông
người, chia thành nhiều nhóm già, trẻ với những lò nướng và các cây đàn guitar,
bên ánh lửa bập bùng.
Mấy người
láng giềng gặp tôi ai cũng mừng, bắt tay hỏi han đủ chuyện. Từ chuyện ông
Donald Trump đến chuyện giá xăng dầu và cả chuyện súng ống giết nhiều đứa học
trò bên Mỹ. Có người còn nhắc cả chuyện người gốc Á bị kỳ thị và hỏi tôi có từng
bị dọa nạt, đánh lén bao giờ chưa. Điều này đã làm tôi có chút áy náy, bởi ở
Nauy không hề có hiện tượng tồi tệ ấy bao giờ.
Uống xong
lon bia, người nóng lên, tôi đứng lên đi dạo một vòng sang các nhóm khác. Bất
ngờ nghe có tiếng đàn dạo bài Hạ Trắng của Trịnh Công Sơn, điều khá lạ ở một
nơi hầu hết là người bản xứ, nên tôi thử tìm đến đó. Một chàng thanh niên Nauy
đang ngồi đánh đàn bên cạnh một cô gái Á châu. Tôi đoán ngay cô ta là người Việt.
Bước lại gần hơn với chút tò mò, trong ánh lửa tôi nhận ra người quen, nhưng
không phải cô gái Việt nam mà là chàng thanh niên Nauy, hơn nữa đó lại là một
người đã từng có với tôi nhiều kỷ niệm khá đặc biệt, lý thú. Chờ tiếng đàn kết
thúc, tôi vỗ tay đúng lúc anh ta cũng vừa nhận ra tôi. Anh đứng lên vồn vã bắt
tay và giới thiệu tôi với cô gái:
– Đây là
ông thầy của anh! Thầy dạy lịch sử chiến tranh Việt nam! Anh vừa nói vừa đùa.
Khi cô gái
còn đang ngạc nhiên, chưa kịp chào tôi, anh ta cười khoe với tôi:
– Còn đây
là bà chủ của tôi!
Sau đó anh
đưa tay chỉ hai đứa con nhỏ đang nắm tay nối vòng tròn trong một đám con nít,
phía trước, rồi hỏi:
– Tôi có
nghe gia đình ông đã dọn sang Mỹ và cứ tưởng là ông ở luôn bên ấy rồi chứ.
Tôi cười:
– Không,
làm sao mà chúng tôi có thể quên đất nước Nauy này được, nơi mà chúng tôi đã
xem như là quê hương thứ hai của mình.
Anh ta siết
tay tôi thật chặt.
Từ khá lâu
rồi tôi mới có dịp gặp lại anh ta. Bởi chỉ sau ba năm đến định cư và ở trong
khu chung cư này, gia đình tôi đã dọn đi nơi khác khi mua được ngôi nhà lớn
hơn, đầy đủ chỗ ở và sinh hoạt cho sáu đứa con. Mãi khi tất cả các cháu đã đi học
xa, chúng tôi mới trở lại nơi này, mua một căn chung cư nhỏ gần bên nhà cũ, vì
vẫn còn lưu luyến với khá nhiều kỷ niệm của những ngày mới đến, và đặc biệt là
một số bạn bè cùng những người láng giềng thân quen từ dạo ấy.
Thời gian
còn ở trại tị nạn Bataan, Phi Luật Tân, tôi may mắn được học thêm một số giờ đặc
biệt về ngôn ngữ Nauy để giúp làm phụ giảng và thông dịch cho các thầy cô giáo,
nhờ vậy mà khi mới đến Nauy tôi đã có được một chút vốn liếng ngôn ngữ đặc biệt
lạ lẫm này, tuy chưa thông thạo lắm. Cuối tháng 5/1985, ngày đầu đến định cư
tôi được một nhóm phóng viên truyền hình của đài NRK đến tận nhà phỏng vấn. Biết
tôi từng là một người lính miền Nam nên họ hỏi khá nhiều về chiến tranh và những
năm tháng bị tù đày. Nghe họ ví von mình như là những người anh hùng Nauy chiến
đấu giữ nước, nhưng bị Đức Quốc Xã bắt cầm tù trong các trại khổ sai thời Đệ Nhị
Thế Chiến mà tôi thấy ngượng ngùng, bởi vì dù gì mình cũng là người lính bại trận,
không giữ được lời thề và cả giang sơn để giờ phải lưu lạc đến đây cùng với cả
gia đình, và ít nhiều gì, với họ chúng tôi cũng là những cành tầm gởi.
Nhưng
không ngờ chính chương trình phỏng vấn này đã đưa tôi đến một cái nghề bất đắc
dĩ trong lúc tôi đang tạm làm thông dịch cho Phòng Xã Hội và chờ theo học một
ngành chuyên môn để xin việc làm chính thức.
Tôi được
bà Trưởng phòng Tỵ Nạn Thị Xã giới thiệu một cặp vợ chồng người Nauy. Ông chồng
là thầy giáo một trường trung học tại địa phương và bà vợ là y tá. Ông bà xem
chương trình phóng sự, theo dõi cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình, không hiểu
từ đâu, nhận ra ở tôi có những tố chất nào đó để có thể giám sát, kiềm hãm và
làm thay đổi cái tính khí bất thường như một tâm bệnh của đứa con trai gần 15
tuổi của họ: hiếu động, nóng nảy, thích gây gỗ và bất cần, đôi lúc còn tự cào cấu
vào người, gây thương tích cho chính mình.
Nghe họ
nói, tôi phì cười. Tôi đâu phải là một nhà tâm lý học. Hơn nữa thuốc để chữa được
bệnh tâm lý chính là ngôn ngữ, mà tiếng Nauy của tôi đang ở trong tình trạng ăn
đong thì làm nên trò trống gì đây. Tôi mỉm cười, lắc đầu trước khi trình bày với
họ những suy nghĩ ấy. Nhưng ông bà và cả bà Trưởng phòng Tỵ Nạn cứ khuyên
khích, bảo tôi nên làm thử và hứa hẹn một khoảng thù lao khá hậu hĩnh trong khi
mỗi tuần chỉ cần làm việc ba tiếng đồng hồ vào hai ngày cuối tuần. Họ tin là
tôi sẽ giúp được, vì cậu con trai của họ cũng tỏ ra thích thú và đang tìm hiểu
về tôi sau khi theo dõi cuộc phỏng vấn. Tôi ái ngại nhận lời, nhưng không dám hứa
bất cứ điều gì, và cũng sẽ không nhận tiền thù lao. Xem như là dịp để tôi trau
dồi thêm ngôn ngữ Nauy.
Trước khi
đến nhận việc, tôi hỏi kỹ ông bà hơn về những điều đặc biệt mà cậu con trai thường
làm và sở thích của cậu ta. Ông bà cho biết cậu bé từng yêu một cô gái lớn hơn
nhiều tuổi, là một sĩ quan trong quân đội hoàng gia Nauy, chị của một thằng bạn
học mà cậu ta bất ngờ găp được trong một đêm Hạ Chí (Sankthans). Tất nhiên cậu
ta không những bị cô gái từ chối mà còn thương hại, dạy dỗ vài bài học, vì đây
chỉ là tình yêu mê muội theo kiểu“Aimez-vous Brahms”. Từ đó cậu ta thất tình bất
mãn, rồi đổi hẳn tính nết: xa lánh bạn bè, ngoài giờ học chỉ đóng cửa ở trong
phòng, thích làm anh hùng, mê xem phim chiến tranh, thích mặc quân phục, mang
kiếm, huy chương và chơi các loại súng giả, bằng nhựa. Các loại đồ chơi này bị
cấm tại Nauy, nhưng cậu ta tìm mua khi có dịp đi du lịch ở các nước Âu châu
khác.
Ngày đến
nhận việc, để làm quen, tôi mang đến biếu cậu ta một bộ quân phục, giây nịt
“TAB”và cái bi đông quân đội, tôi mua được trong một tiệm bán đồ cũ. Có lẽ đã
được bố mẹ giới thiệu trước, nên khi thấy tôi cậu ta đứng nghiêm đưa tay lên
chào theo kiểu nhà binh. Điều đầu tiên tôi khá ngạc nhiên vì với tuổi gần 15,
nhưng cậu ta trông cao lớn như một thanh niên đã trưởng thành. Tôi thoáng thăm
dò trước khi đưa tay lên chào lại và bắt tay cậu ta.
Ngược với
ước đoán của tôi, cậu chẳng tỏ ra thích thú gì với mấy món quà tôi tặng. Xem lướt
qua xong, cậu vất trên chiếc ghế bành, nhíu mày:
– Mấy thứ
này đã lỗi thời, của mấy ông lính già còn sót lại từ thời đệ nhị thế chiến!
Tôi cười:
– Trong
quân đội, những người lính già, càng thâm niên càng được kính trọng, chứ nhiều
chàng lính sữa thích ra vẻ oai phong nhưng ra chiến trường, nghe tiếng đạn bom
thì nhát như thỏ đế!
Nói xong,
tôi chờ đợi và đề phòng một phản ứng, nhưng bất ngờ cậu cúi xuống, hỏi:
– Nghe ông
ở trong quân đội và đánh nhau tới mười năm, bị thương mấy lần rồi?
– Khoảng
ba bốn lần, nhưng chỉ hai lần còn mang thương tích.Tôi vừa trả lời vừa vạch áo
và ống quần chỉ cho cậu ta xem vết sẹo còn trên bụng và dưới ống chân.
Cậu ta
chăm chú nhìn, đưa tay sờ trên từng vết sẹo, rồi đột ngột hỏi:
– Ngày đó
chắc ông đánh giặc chì lắm, là một hero?
Tôi phì cười,
lắc đầu, cố gắng tìm những từ ngữ đã học được và nói thật chậm để cậu ta có thể
hiểu được:
– Không,
tôi chỉ là một sĩ quan bộ binh bình thường. Những đồng đội đánh giặc giỏi của
tôi thường là những hạ sĩ quan hoặc khinh binh, và đa phần họ đã tử trận hết rồi.
Anh hùng thực sự là những người nằm xuống ở chiến trường. Còn sống như tôi thường
không thể là anh hùng, có khi còn hèn nữa, nhất là khi bị địch cầm tù!
– Đơn vị
ông chắc luôn chiến thắng và tạo nhiều chiến công?
– Đúng là
chúng tôi đã chiến thắng hầu hết trên chiến trường, kể cả những trận chiến ác
liệt nhất, nhưng rồi phải thua trận cuối cùng, khi chúng tôi không còn đủ đạn
dược và điều kiện để phản công và lực lượng địch lúc ấy gấp chúng tôi từ 5 đến
10 có khi 20 lần. Vì vậy tôi mới có mặt ở đây.
– Nhưng đọc
trên báo chí, thấy hầu hết những tướng lãnh của ông đã bỏ chạy sang Mỹ trước
ngày mất Sài gòn?
– Đúng, có
một số đã làm như vây trong hoàn cảnh tuyệt vọng, nhưng cũng có nhiều tướng
lãnh đã chiến đấu tới giờ phút cuối cùng để rồi 5 vị tuẫn tiết cùng với nhiều
sĩ quan và binh sĩ khác, và hơn 30 tướng lãnh khác đã bị CS cầm tù cùng với
chúng tôi, hơn 15, 18 năm. Cậu có biết điều này?
Có lẽ từng
xem một vài phim chiến tranh Việt nam do Mỹ hay các nước Âu châu thân Cộng thực
hiện, hoặc nghe ông thầy dạy sử nào đó lếu láo trong lớp, cậu ta tỏ ra hiểu biết:
– Tại các
ông theo Mỹ, mà người dân Mỹ đâu có ủng hộ cuộc chiến tranh ở đó, vì đó là một
cuộc xâm lăng, phi nghĩa. Các ông thua là phải.
Tôi cười:
– Cậu cũng
chịu khó theo dõi chiến tranh trên quê hương tôi đấy chứ. Thôi thì cứ tạm cho
là như vậy đi. Chuyện này phức tạp lắm, hơn nữa tôi cũng chưa đủ ngôn ngữ để giải
thích cho cậu bây giờ. Từ từ rồi chúng ta bàn luận tiếp. Tôi chỉ tạm xác nhận
trước một điều, trong suốt cuộc chiến ấy, chúng tôi vẫn xem Mỹ là một đồng minh
chiến đấu cho Tự Do, giúp chúng tôi bảo vệ miền Nam, mặc dù không ưa cái cách đồng
minh kẻ cả của họ. Riêng quân đội miền Nam chúng tôi chưa bao giờ đánh ra miền
Bắc, chưa hề gây thương tích hay chết chóc cho bất cứ một người dân miền Bắc
nào, ngược lại chúng tôi chỉ chống đỡ các lực lượng của CS Bắc Việt xâm nhập, tấn
công miền Nam dưới sự hỗ trợ đắc lực của Nga, Tàu và khối CS, giết hại hàng vạn
người dân và phá hủy biết bao nhiêu công trình xây dựng, kinh tế của chúng tôi.
Như vậy, kẻ xâm lăng chắc chắn không phải chúng tôi!
Cậu ta gật
gù, im lặng.
Đúng là cậu
bé mê chuyện chiến tranh và thích làm người hùng, nhưng may mắn là không tôn thờ,
sùng bái Hitler như một số thiếu niên Bắc Âu thời ấy. Những ngày làm việc của
tôi sau đó cũng chỉ kể lại các trận đánh và những năm tháng tù ngục. Tôi đưa
cho cậu ta xem hình ảnh dã man trong Cải Cách Ruộng Đất, Tết Mậu Thân tại Huế,
với các hố chôn người và đặc biệt là hai vợ chồng bác sĩ người Đức bị CS giết
chết, Tôi cũng cho anh ta xem hình ảnh Đại Lộ Kinh Hoàng và chiến trường An Lộc,
Quảng Trị để cậu ta thấy cái khủng khiếp của chiến tranh và tội ác của những
người cộng sản. Tôi cũng kể chuyện của chính tôi đã từng đối xử nhân đạo với những
tù binh cộng sản bị đơn vị tôi bắt ở An Khê, Kontum như thế nào, khi cậu ta hỏi
tôi về nhà tù Côn Đảo mà cậu đã đọc trên các báo thân cộng tại Thụy Điển tuyên
truyền.
Có lần cậu
ta thắc mắc, tại sao cộng sản miền Bắc Việt Nam gây chiến tranh và chết chóc
như thế mà lại được ông Thủ tướng Olaf Palme của Thụy Điển hết lòng ủng hộ, ông
từng tuyên bố, nếu bất cứ người lính Mỹ nào phản đối chiến tranh Việt Nam, đào
ngũ khỏi quân đội, ông sẵn sàng nhận và trợ cấp cho sang sống ở Thụy Điển. Tôi
cười, bảo là cộng sản rất giỏi tuyên truyền, nên đâu chỉ có ông Palme, mà còn
nhiều người Âu châu khác, trong đó có Nauy, tin và ủng hộ. Thậm chí, ngay cả một
số trí thức và thầy tu, linh mục ở miền Nam chúng tôi, cũng bị lừa gạt, say mê
đi theo họ, để rồi sau này hầu hết đã hối hận, nhiều người quay lại chống chính
quyền CS hoặc bỏ trốn ra khỏi nước.
Tôi cố giải
thích:
– Cậu thấy
có nước cộng sản nào mà người dân thực sự có tự do hạnh phúc không, có người
dân Tây Đức nào trốn sang Đông Đức mà ngược lại đã có hàng triệu người Đông Đức
đã tìm đủ cách để vượt thoát sang Tây Đức bất chấp cả cái chết và sự tra tấn tù
đầy nếu chẳng may bị bắt?
Để câu ta
trầm ngâm vài giây, tôi nói tiếp:
– Tôi đoan
chắc với cậu, là chỉ trong một thời gian không lâu nữa là bức tường Bá Linh bị
chính người dân Đông Đức giật sập đề chỉ có duy nhất một nước Đức không Cộng Sản.
Cậu ta vẫn
không ngước lên, hỏi:
– Thế thì
còn Liên Xô?
– Liên
Bang Xô Viết, cái thành trì của chủ nghĩa Cộng sản này cũng đang có những dấu
hiệu sụp đổ, chắc theo dõi tin tức cậu cũng biết.
Cậu ta nhếch
môi cười rồi hỏi tôi có muốn dùng một ly cà phê. Tôi gật đầu cám ơn. Khi mang
ly cà phê và một đĩa bánh táo đến để trước mặt tôi, cậu vừa mời vừa hỏi bất chợt:
- Hơn mười
năm tác chiến, chắc ông đã giết rất nhiều địch quân?
Đắn đo một
vài giây, tôi ôn tồn:
- Chính
tay tôi thì không, nhưng đơn vị do tôi chỉ huy thì tất nhiên là có, còn nhiều
bao nhiêu thì không ai biết được. Nhưng điều này không hề làm cho tôi hãnh diện
hay sung sướng gì đâu, mà trái lại, nhiều lúc còn là nỗi ám ảnh và đau xót, bởi
vì họ cũng là những con người, hơn nữa lại là người cùng dòng giống với chúng
tôi. Cái chết của họ cũng đau đớn như những cái chết của đồng đội dưới quyền
tôi. Nhưng cậu cũng hiểu rằng, điều đau lòng đó là do chiến tranh mà chúng tôi
chỉ là những người muốn tự vệ, miền Nam chúng tôi chưa hề gây chiến.
Thấy cậu
ta tỏ vẻ ngạc nhiên với một chút xúc động, tôi xuống giọng:
- Vì vậy,
là một người từng trải qua chiến tranh, một cuộc chiến khốc liệt và đau xót nhất,
tôi thành thật khuyên cậu đừng bao giờ mơ tưởng trở thành một người lính chỉ để
đi chém giết nhau. Cậu rất may mắn được lớn lên trong một đất nước thanh bình
như Nauy để những thế hệ thanh niên như cậu không phải bị vướng vào nỗi ám ảnh
như tôi. Theo tôi, cái chiến thắng vĩ đại đáng hãnh diện nhất của một quốc gia
chính là không cần phải chiến thắng, không cần phải chém giết ai cả. Mấy vết
thương mà cậu đã nhìn thấy trên người tôi đã thành sẹo tự lâu rồi nên không còn
đau đớn gì, nhưng riêng nỗi ám ảnh xót xa ấy vẫn cứ còn âm ỉ mãi trong lòng
tôi, và buồn thay đó là điều duy nhất còn lại sau hơn mười năm tôi đi làm lính
chiến.
Cậu ta trầm
ngâm giây lát rồi đứng lên im lặng nắm tay tôi.
Không biết
cậu ta có thay đổi được điều gì không, nhưng sau đó cậu trở thành bạn của mấy đứa
con tôi, từ khi ba cháu lớn vào học chung trường với cậu và ông bố lại là thầy
dạy môn quốc văn Nauy và tiếng Tây Ban Nha. Về sau này, khi chúng tôi dọn về
nhà mới gần bờ sông Nitelva, có vài lần cậu ta xuống thăm, mang theo chiếc thuyền
bằng cao su (loại bơm hơi), rủ mấy đứa con tôi cùng đi dạo, câu cá dọc trên
sông.
Lần cuối
cùng đến gặp tôi, khi nghe tôi nói ba cô con gái lớn đã sang Mỹ và Anh học, cậu
ta khá bất ngờ, đứng thẫn thờ một lúc rồi chào tôi, cáo từ. Sau này, nghe các
con nói lại, dường như cậu ta “phải lòng” cô con gái kế của tôi, nhưng cháu
không để ý.
Từ đó, tôi
không còn gặp cậu ta. Cho đến một ngày cuối tháng 8 năm 1991, cậu bất ngờ đến
tìm tôi, mang biếu chúng tôi một thùng dâu tây, bảo là cách nay mấy hôm, khi
theo dõi việc Liên Bang Xô Viết tan rã, cậu ta bỗng nhớ tới tôi, nên hôm nay đến
gặp để nhắc là lời ước đoán ngày xưa của tôi đã đúng. Anh ta gật gù:
– Ông đúng
là một người lính già và nhiều kinh nghiệm.
Tôi cười:
– Nhưng lại
là một người lính bại trận. Còn chuyện Liên Xô tan rã thì cả thế giới này ai
cũng đoán trước được, chứ đâu phải riêng tôi!
Cậu ta lắc
đầu cười, bảo sẽ nghiên cứu thêm về cuộc chiến Việt nam, và nhất định sẽ sang
Việt Nam tìm hiểu về đất nước này cùng với hậu quả cuộc chiến mà tôi từng kể
cho cậu ta nghe.
Cậu cũng
cho biết là hiện đang theo học về ngành dầu hỏa tại đại học Stavanger, một tỉnh
cực nam Nauy. Cha mẹ thì đã ly dị, ông cha trở về quê cũ ở cố đô Bergen và đã
có người tình mới, bà mẹ cùng cô em gái vẫn còn ở chỗ cũ, thỉnh thoảng anh có về
thăm.
Đêm nay,
hơn 30 năm sau, bất ngờ gặp lại cậu, cũng trong một đêm Hạ chí Sankthans, khi cậu
ta đã là một trung niên, còn tôi thì mái đầu bạc trắng. Gặp lại cậu, tôi cũng
vui và xúc động. Đặc biệt thấy có chút gần gũi hơn khi biết cậu có vợ Việt Nam
và dạo đàn thành thạo bài Hạ Trắng, cho dù từ khá lâu rồi tôi không còn thiện cảm
với người sáng tác bài ca hay đó nữa.
Uống cạn
thêm hai lon bia để mừng cho cuộc trùng phùng và cho cả mối lương duyên khá đặc
biệt của vợ chồng cậu, tôi bắt tay từ giã sau khi nhận lời mời gặp lại hai ngày
sau đó tại nhà mẹ cậu, trước khi vợ chồng trở về lại nhà ở thành phố Stavanger.
Bà mẹ vẫn
còn nhớ tôi và đón tiếp khá niềm nở, hỏi thăm về đời sống của gia đình tôi và
các con. Cậu kể cho tôi nghe thời gian hơn ba năm theo Statoil (công ty dầu hỏa
Nauy) sang làm việc ở Việt Nam, cậu có nhiều dịp đi đó đây để tìm hiều về cuộc
chiến Việt nam. Cậu may mắn làm quen với một cụ già, vốn là giáo sư đại học miền
Nam, giờ phải giúp đứa cháu nội trong một sạp bán sách cũ và các loại quà lưu
niệm, ở vỉa hè. Ông thông thạo cả Anh, Pháp ngữ, hiểu biết khá nhiều về tình
hình trên thế giới và đặc biệt về cuộc chiến Việt nam. Ông bảo cậu, nếu thấy bất
cứ người tàn tật nào lây lất bên đường, thì đó có thể là một thương binh của miền
Nam lúc trước, bị chế độ này kỳ thị, đuổi xô, ruồng rẫy. Và cũng nhờ ông mà cậu
ta biết chút ít tiếng Việt.
Nghe theo
lời ông, nên mỗi khi trông thấy một người tàn phế nào lê lết đi bán vé số hoặc
ôm đàn ca hát để xin giúp đỡ từ lòng yêu thương của khách qua đường, cậu ta đều
tìm đến hỏi thăm, biếu cho chút tiền, thực phẩm hay đồ dùng cần thiết. Một hôm,
cậu gặp một người đàn ông già, chỉ còn một cánh tay và một chân, chống nạng phụ
giúp cô con gái trong một quán cà phê nhỏ ở một vùng ngoại ô. Tuy già nhưng tướng
tá còn phương phi, nói tiếng Anh khá thạo. Cậu ta làm quen và biết ông cũng là
một sĩ quan miền Nam lúc trước, từng theo học một vài khóa tham mưu tại Hoa Kỳ,
tính tình thẳng thắn nhưng rất lịch sự. Sau này cậu ta trở thành con rể của
ông. Cô vợ mà tôi gặp trong buổi tối Hạ chí Sankthans hôm ấy, là con gái duy nhất
của ông, khả ái, thông minh và hiếu học. Được chồng bảo lãnh sang Nauy một thời
gian, cô đã lấy bằng Bioingeniør (xét nghiệm máu) và hiện làm việc trong một bệnh
viện.
Qua nói
chuyện, tôi biết thân phụ cô nguyên là một vị thiếu tá thuộc Sư Đoàn 5 BB, bị
thương trong trận An Lộc. Mẹ đã mất khi cô vừa tròn hai tuổi. Sau khi sang định
cư tại Nauy, cô đã làm hồ sơ bảo lãnh nhưng ông từ chối, chỉ muốn sống hết phần
đời còn lại ở quê nhà. Ông cũng đã mất hơn ba năm trước.
Khi chia
tay, cậu ta bắt tay rồi ôm lấy tôi:
– Tôi có
được cô vợ Việt Nam và hạnh phúc như hôm nay là nhờ ông, nhờ tôi bất ngờ thấy
ông trong cuộc phỏng vấn của đài NRK trong ngày ông và gia đình vừa mới đến định
cư. Và may mắn, cũng nhờ có đêm Sankthans hôm rồi mà gặp lại nhau.
Tôi cười,
đùa:
– Và cũng
tại một đêm Sankthans nào đó ngày xưa, cô sĩ quan Hoàng Gia trong bộ quân phục
oai phong đã làm cậu say mê rồi thất tình, muốn đi lính để làm người hùng, lại
là nguyên do đưa đẩy chúng ta quen biết đến hôm nay.
Bắc Âu,
đêm Hạ chí Sankthans 23.6.2022
Phạm
Tín An Ninh
No comments:
Post a Comment