Bùi
Thanh Vân và chuyến du hành vòng quanh thế giới năm 1929
Người
Đô Thị
07:32 | Thứ năm, 13/01/2022
https://nguoidothi.net.vn/bui-thanh-van-va-chuyen-du-hanh-vong-quanh-the-gioi-nam-1929-33125.html
Dạo khắp hoàn cầu (1929) là quyển sách du ký có giá
trị không chỉ vì ông Bùi Thanh Vân là người Việt đầu tiên du lịch ở châu Mỹ,
Nam Phi đầu thế kỷ XX mà vì các nhận xét và thông tin của ông cho ta thấy tình
hình kinh tế, xã hội trên thế giới giai đoạn này, trong đó toàn cầu hóa trở
thành hiện thực…
·
Radio
Saigon phát sóng âm nhạc Nam bộ ra thế giới
Vào đầu thế kỷ XX, người Việt ít ai có cơ hội
đi ra nước ngoài quan sát học hỏi. Hai quyển sách du hành ký có giá trị về lịch
sử, kinh tế xã hội trong giai đoạn này xuất bản ở Sài Gòn là Lữ
Trung ký sự (1932) và Saigon - Thượng Hải - Hoành Tân (1930).
Ngoài ra còn có các cuốn Tôi có đi chơi bên nước Nhựt Bổn và nước
Tàu (1923) và Dạo khắp hoàn cầu (1929) in ở
Huế của ông Bùi Thanh Vân, người gốc Bến Tre, làm thông ngôn trong triều đình
Huế.
Dạo
khắp hoàn cầu (1929) là quyển sách du ký có
giá trị không những vì ông Bùi Thanh Vân là người Việt đầu tiên du lịch châu Mỹ,
Nam Phi đầu thế kỷ XX mà vì các nhận xét và thông tin của ông cho ta thấy tình
hình kinh tế, xã hội trên thế giới vào giai đoạn này, trong đó toàn cầu hóa trở
thành hiện thực khi khủng hoảng kinh tế xảy ra cuối năm 1929 ảnh hưởng đến mọi
nơi.
Bùi Thanh Vân ra Huế làm việc từ khi còn thanh
niên, quốc tịch Pháp, có viết ký sự về chuyến đi qua Trung Quốc và Nhật Bản sau
khi ông về hưu. Cuốn Tôi có đi chơi bên nước Nhựt Bổn và nước Tàu có
nhiều tư liệu về sự thông thương giữa Việt Nam và Hongkong. Trước đó ông còn viết
các sách bằng tiếng Pháp.
Ông cũng là người thành lập Trường nhạc Pháp
(École de Musique Francaise), Trường nhạc Quảng Đông (École de Musique
Cantonnaise), và Trường hát bội tài tử Annam (Théâtre d’amateurs Annamite) ở Huế.
https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/719d6337-d517-4e69-924c-a470c507008e.jpg
Bìa sách "Tôi có
đi chơi bên nước Nhựt Bổn và nước Tàu" (1923) và "Dạo khắp hoàn
cầu" (1929) , Imprimerie Đắc-Lập, Bùi Huy Tín & Cie. Ảnh: TL
Năm 1929, lúc về hưu (nhà ông ở đường Jules
Ferry, Huế), ông đi du lịch toàn cầu. Trong cuốn Dạo khắp hoàn cầu ông
tả chi tiết cách thức ông sửa soạn, làm những gì ở các địa điểm, tiền gởi ngân
hàng, rút từ chi nhánh ở các nước... Có các hãng tàu của Pháp, Anh và Mỹ đi
vòng quanh thế giới nhưng các lộ trình thì ông không ưng và ông chọn hãng tàu
Nhật Osaka Shosen Kaisha. Lộ trình như sau: Saigon - Singapore - Colombo -
Durban - Cape Town (Nam Phi) - Montevideo - Buenos Aires - Rio de Janeiro -
Santos - Vitoria (Nam Mỹ) - New Orleans - Galveston, Cristobal hay Colon (Bắc Mỹ)
- kênh đào Panama - Balboa hay là Panama - Los Angeles (California) - Yokohama
- Kobe - Hongkong - Saigon.
*
Để đón tàu La Plata Maru của hãng Nhật ghé ở
Singapore đi theo lộ trình vòng quanh thế giới, ông phải đi tàu từ Sài Gòn sang
Singapore.
Tàu La Plata Maru dài 133m, nhân viên 112 người
toàn người Nhật nhưng đều biết nói tiếng Anh. Tàu có hồ bơi. Hành khách và nhân
viên tổng cộng khoảng 1.000 người. Ông Vân là người Việt duy nhất trên tàu
nhưng mua vé ở phòng hạng nhất.
Ngoài số ít ở phòng hạng nhất đa số là người
Âu, còn số người ở phòng khác là người Nhật đi qua Ba Tây (Brazil) lập nghiệp.
Khi tàu đến Durban, ông có dịp lên bờ chơi.
Thành phố có 3 vạn người da trắng và 14 vạn người da đen. Durban rất đẹp, bao
quanh là núi và ban đêm đèn điện lấp lánh. Từ Durban, ông đến Cape Town, thành
phố lớn của Nam Phi. Mặc dầu sầm uất và phát đạt hơn Sài Gòn, ông Vân cho rằng
các dinh thự, nhà thờ Công giáo và Tin lành ở Durban và Cape Town không bằng
Dinh Thống đốc và Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn. Sở thú cũng không bằng, chỉ có viện
bảo tàng là phong phú và đồ sộ hơn.
Từ Cape Town, tàu đi đến Rio de Janeiro, thủ
phủ xứ Ba Tây, ông Vân cho là Rio de Janeiro đẹp hơn Cape Town nhiều lần. Từ
Rio de Janeiro tàu đi đến Santos là nơi mà tám - chín trăm người Nhật trên tàu
xuống nhập cư vào đất nước mới. Tại Santos, người Nhật buôn bán trong chợ. Và từ
Santos đi một ngày đường là đến vùng trồng cao su, nơi có 60.000 người Nhật sống.
Ông Vân có đến lãnh sự Pháp ở Santos, vị lãnh sự nói không có người Việt nào ở
Santos và ông Vân là người Việt đầu tiên trong 3 năm làm việc mà ông lãnh sự gặp
ở Santos.
https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/1e1076db-a5d9-4646-92b7-14be7b0f5e6b.jpg
Tàu La Plata Maru,
một trong ba tàu lớn chở hành khách hiện đại đầu tiên của Nhật đi các nước. Tàu
được Công ty Mitsubishi hoàn thành năm 1926 ở Nagasaki. Như vậy, năm 1929 khi
Bùi Thanh Vân đi trên tàu này, tàu rất mới và hiện đại. Khi Thế chiến thứ hai xảy
ra tàu được hải quân Nhật trưng dụng vào năm 1941 và đặt tên lại là Kanju Maru.
Ngày 12.1.1945, tàu bị đánh chìm ở sông Sài Gòn do máy bay Mỹ đánh bom. Ảnh:
TL
Bắt đầu từ Santos đi Buenos Aires, thủ phủ nước
Argentina thì trên tàu đã có y sĩ khám tình hình bệnh tật và xem có phải cách
ly không. Tàu trước khi đến Buenos Aires phải ghé Montevideo (Uruguay) để đậu
vài ngày thẩm định cách ly xem ai có bệnh, nếu không thì tàu tiếp tục đến
Argentina.
Buenos Aires, thủ phủ của Argentina gây ấn tượng
cho ông Vân:
Phố phường buôn bán rực rỡ như bên Tây. Ban đêm thắp
đèn điện ngũ sắc trong mấy cái bản rao (quảng cáo) xinh lạ lùng như cảnh tiên.
Mấy trăm cái nhà ci-nê-ma, hát bội, múa..
.
Các con đường rộng, hẹp, lót gạch bằng cây, bằng đá
xanh, tráng dầu hắc.
Có xe điện chạy dưới đất. Xe điện chạy trên đường sắt
trên mặt đất, mấy vạn ô tô và ít cái xe ngựa tranh nhau làm ăn. Xe điện đi gần,
xa cứ giá một cắc bạc mà thôi. Xe điện chạy ngõ nào cũng có, trừ vài cái đường
rộng, cấm không cho vào, để cho xe ô tô và xe ngựa qua lại mà thôi. Mấy con đường
đó đẹp vô cùng…
Từ Buenos Aires, tàu đi đến thành phố La Plata
bỏ hàng, hành khách được xuống bờ ở lại vài ngày. Sau La Plata, tàu trở lại
Santos. Ở đây ông Vân đã đón xe lửa đi São Paulo, một thành phố lớn ở Ba Tây.
Thành phố này có người Nhật và người Hoa sinh sống. Sau đó ông đến thành phố
Vitoria, nơi kinh tế dựa vào canh nông và rất nhiều hoa quả.
Từ Vitoria, tàu đi đến New Orleans, thành phố
cảng miền Nam Hoa kỳ. Trước khi vào New Orleans, tàu và hành khách phải được kiểm
dịch ở trạm Lazaret gần cửa sông Mississippi. Sông rất rộng lớn. Đất ở gần cửa
sông có nhiều rừng, bụi cây, lau, lách, sậy đều bỏ không nhưng đã có chủ là những
ông triệu phú ở xa. Đất có nhiều chỗ là vũng nước, có cả cá sấu. Có heo rừng,
le le, vịt, cò, ngỗng rừng, thỏ, chồn. Sau khi xông thuốc, tàu được phép đi lên
New Orleans cách cửa sông 130 km. Dân số New Orleans khoảng 500 ngàn người. Có
khoảng vài ngàn người Hoa và Nhật. Dân da đen khoảng 100 ngàn người. Ở nơi đây
và tiểu bang này có chính sách phân cách giữa người da trắng và da màu. Trong
các rạp hát, xe điện, người da trắng và da đen ngồi riêng biệt.
Lúc này là vào tháng 7.1929, mùa hè rất nóng,
ông Vân đi xe lửa từ New Orleans tới New York. Ông cho biết đây là chuyến xe lửa
nhanh, nhưng tốn 38 tiếng để đến New York với khoảng cách là 1.809 km, giá vé
chỉ có một bực là hạng nhứt. Giá đi và về là 200$, thuê giường ngủ trên toa xe
lửa trong 4 đêm là 50$, bữa ăn 5$. Tổng cộng đi xe và ăn ở là 300$. Quang cảnh
ông nhận xét là miền Nam Hoa Kỳ trồng bắp, bông dệt là phần nhiều; còn có lúa
mì, trái cây... Cảnh đồng quê rất vui mắt. Khi gần tới New York, xe lửa chạy
vào đường hầm dài 1.500m dưới sông Hudson.
Vào năm 1929, thành phố New York đã có 7 triệu
người, là trung tâm kinh tế của Hoa Kỳ. Ông Vân một mình đi khắp nơi từ đi bộ đến
đi xe điện.
Tôi đi dạo chưn, xe ôtô, xe điện trên trời, xe điện
trên mặt đất, xe điện dưới âm phủ. Cả thảy xe điện đó, giá một cắc bạc một người,
bất kỳ đi xa gần.
Tôi đi các nước rồi, chỉ thấy tại New York có xe điện
đi trên trời thôi.
Có nhiều nhà ga xe lửa. Nhưng mà ga Pennsylvania và
Grand Central Terminus lớn và đẹp hơn cả…
Ông nhận xét người Mỹ rất tốt và thân thiện.
Sau khi trở lại New Orleans, tàu rời nơi đây
đi đến Galveston ở bờ Đại Tây Dương. Galveston là thành phố nhỏ với 63 ngàn
dân. Có xe hơi và xe điện, nhưng nhiều đường chưa đổ đá. Ở đây người nghèo dùng
xe đạp nhiều hơn các thành phố mà tác giả đã đến.
Tàu sau đó rời Galveston đi đến Cristobal ở nước
Panama. Thành phố này ở bờ Đại Tây Dương cạnh vàm kinh đào Panama. Có nhiều dừa
và xoài, cảnh đẹp với dân số da trắng và da đen khoảng 30 ngàn người. Người Hoa
đông buôn bán và làm đủ nghề.
Tàu La Plata Maru khi qua kinh phải đóng 15
ngàn tiền Đông Pháp, tính theo trọng tải tàu, cho Chính phủ Mỹ. Kinh dài 80km,
tàu đi mất khoảng 8 tiếng.
Kinh Panama đẹp quá. Tôi muốn qua lại đôi, ba lượt mới
phỉ, vì có núi xanh, rừng xanh, làng xã hai bên, xe lửa, xe ô tô chạy một bên
mé kinh. Tàu chạy chen quanh, quẹo trong kẹt núi, kẹt rừng mát mẻ…
Từ cửa kinh Miroflare của kinh Panama, ở Thái
Bình Dương, tàu đi lên Los Angeles, tây Hoa Kỳ, mất 11 ngày. Los Angeles là
thành phố lớn với 1,5 triệu dân trắng và đen, có mấy vạn người Nhật và Hoa sinh
sống.
Xứ nầy có hơn một ngàn cái mạch dầu lửa. Những sở
máy làm dầu đông kể không xiết. Nhiều chiếc tàu chở toàn dầu đi bán xứ khác.
Khi tàu La Plata Maru cặp bến Los Angeles,
nhân viên nhập cảnh xuống xét giấy thông hành. Những người da trắng được cho
phép lên bờ, trong khi ông Vân và tất cả những người da vàng bị cầm giữ trên
tàu. Điều này làm ông Vân rất giận và thấy bị tổn thương. Ngày hôm sau thì ông,
một người Nhật và ba người Hoa đi vé hạng nhất được cho xuống bến đi dạo, còn lại
tất cả những hành khách khác người da vàng đi hạng ba đều không được xuống
trong bốn ngày tàu đậu ở Los Angeles.
Ông Vân đã đến thăm ông Tổng lãnh sự Pháp ở
Los Angeles. Ông được tiếp đãi và mời dùng cơm, ông gởi cho ông tổng lãnh sự
báo cáo về sự làm phiền của sở di trú. Ông lãnh sự nói sẽ gởi lá thư này đến
ông đại sứ Pháp ở Washington.
https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/ac73031a-f35b-4c0b-b0ac-612a9f6af4be.jpg
Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài, thông gia của Bùi
Thanh Vân, đứng bên trái vua Khải Định (thứ hai từ phải). Ảnh: TL
Tàu từ Los Angeles đến Yokohama mất 17 ngày,
ông đến Nhật ngày 31.8.1929. Vì ông đã viếng thăm Yokohama vào năm 1923, nên
ông đi xe lửa tốc hành đến Nagasaki để về nước sớm. Ông đi xe lửa đến Nagasaki
để đón tàu Hawai Maru cũng của hãng Osaka Shosen Kaisha về Sài Gòn.
*
Tổng cộng chi phí cho chuyến đi của ông Vân là
2.800$. Một số tiền không nhỏ nhưng cũng không phải là quá lớn (lương công chức
khoảng 100$ mỗi tháng). Ông Vân kể lại ông học hỏi được rất nhiều.
Ông đã cho ý kiến về một vài cải cách qua kinh
nghiệm mà ông học hỏi ở nhiều nước:
Cách mặc áo quần, An Nam đẹp. Đờn ông mặc theo Tây
cũng hay, gọn. Đờn bà phải để tóc, đờn ông nên hớt.
Nên bãi bớt đốt pháo và giấy cúng.
Rượu và nha phiến (opium) xin bỏ giảm lần lần…
Ông Vân cũng đề nghị muốn ngăn được cờ bạc lậu
thì phải mở casino chính thức để giải quyết vấn đề xã hội này và lấy được thuế.
Ông cũng đề xuất bãi bỏ xe kéo. Dùng xe ngựa, xe điện thế. Xin nhà nước lập nhà
băng hay là bảo lãnh nhà băng… Xin nhà nước dạy người An Nam đủ nghề nghiệp.
Cho phép người An Nam đi ngoại quốc...
Cuối cùng qua kinh nghiệm ông Vân đã chứng kiến
thì người Mỹ và người Anh đối xử với người da đen rất tệ.
Quyển ký sự du lịch toàn cầu của ông Bùi Thanh
Vân đã để lại cho đời sau nhiều tư liệu về các nước ở Nam Phi và châu Mỹ dưới
cái nhìn của một người Việt, một người hấp thụ hai nền văn minh truyền thống Việt
Nam và phương Tây. Không như những sách du hành ký khác như Lữ Trung ký
sự (1932) và Saigon - Thượng Hải - Hoành Tân (1930),
cuốn Dạo khắp hoàn cầu (1929) còn đưa ra những ý kiến cho nhà
cầm quyền thời bấy giờ cải cách và áp dụng các ý tưởng mà tác giả đã có kinh
nghiệm học hỏi qua chuyến đi vòng quanh thế giới của ông, vào các chính sách
giáo dục và kinh tế ở Đông Dương.
Nguyễn Đức Hiệp
No comments:
Post a Comment