Nguyễn
Thị Kim Thoa
23/07/2020
Tôi rất có duyên trong
chuyện học. Cái duyên ấy được tạo tác nên bởi thầy cô từ cấp tiểu học biết kích
thích tính tò mò của học sinh, và bản thân tôi luôn khao khát “khám phá những
điều bí mật” trong sự sống tự nhiên và con người. Sách giáo khoa trình bày những
kiến thức minh nhiên mà tôi thì cứ cho là bí mật, bởi vì tôi thường tự mình
“khám phá” từ đầu hè hầu như tất cả các chương trình trong năm học tới. Cuối
năm lớp nhì (lớp 4 bây giờ), anh Bửu Hàm, bạn học y khoa của anh trai tôi đem
cho tôi cuốn sách Khoa Học Thường Thức do cha anh – cụ Ưng Luận biên soạn và xuất
bản. Thế là mùa hè năm đó ngoài những cuộc rong chơi với bạn bè, hoặc một mình
len lỏi “vườn Vỹ Dạ”, tôi đã miệt mài với cuốn Khoa Học Thường Thức và những cuốn
sách giáo khoa lớp nhất khác. Cuối hè nói như ngôn ngữ ngày nay, tôi coi như
“cơ bản” nắm bắt được chương trình lớp nhất.
Tôi thích cây cối, hoa
lá, chim muông, sỏi đá và đặc biệt: Con Người. Từ thời học trung học đệ nhất cấp
(cấp hai bây giờ) học Vạn vật (bây giờ là sinh học) với cô Minh Cầm, cô Nhàn...
tôi có bộ sưu tầm hình ảnh cây lá, côn trùng, chim thú, Con Người dày và đẹp nhất
lớp. Tôi thích con khỉ Paker được các nhà du hành Mỹ đưa lên vũ trụ lần đầu
tiên. Tôi thích con mèo Orengey đóng phim. Tôi thích hình vị thần Atlas trong bộ
sách địa lý của cha tôi. Tôi thích hoa Diên Vỹ trong tranh của họa sĩ Van Gogh.
Tôi thích hoa Thạch Thảo trong thơ Apollinaire qua bản dịch của Bùi Giáng và nhạc
Phạm Duy. Tôi thích ngắm bình minh trên biển Thuận An. Tôi thích ngắm chiều tím
trên những ngọn núi xa nhìn từ bên này sông Hương. Tôi thích...Tôi thích...
Ôi cuộc đời học trò của
tôi sao mà đẹp như vậy nếu mẹ tôi không bị chính quyền đánh bể nồi cơm sau khi
môn bài gạo gia đình bị đình chỉ do vụ “gạo miền Trung” năm 1958, nếu cha tôi
không vì bệnh mà chết sớm, nếu không có chiến tranh chết chóc trận Mậu Thân, nếu
không có những cảnh đời đói khổ, chết chóc, bệnh tật...
***
Vào đệ nhị cấp (cấp ba
bây giờ), tôi tham gia nhóm Hướng Thiện do bác Phạm Đăng Siêu chủ trì. Nhóm Hướng
Thiện được thành lập tại nhà tôi với bốn thành viên trụ cột, kết nghĩa huynh đệ:
Nguyễn Đắc Hồng (anh cả tôi), Phan Đăng Huy (còn gọi anh Sáu), Tống Viết Thành
và Đoàn Thiện. (Nhóm Hướng Thiện sau này phát triển lên đến cả trăm thành viên.
Cha Petitjean – thầy dạy thêm pháp văn của tôi cũng thỉnh thoảng lui tới và
đóng góp. Cha Petitjean và bác Phạm Đăng Siêu thường gặp gỡ trò chuyện về đề
tài tôn giáo – văn hóa trong tinh thần thân thiện và tương kính có tôi chầu
rìa). Cuối mỗi tuần, nhóm thường họp tại nhà tôi trước khi bắt đầu các cuộc
hành thiện. Chủ trương của nhóm Hướng Thiện là gom góp gạo, áo quần cũ, tiền bạc
trong bạn bè thân quen đem chia sẻ cho những gia đình nghèo khó tại thành phố
Huế hay tại các làng xóm ở nông thôn. Tôi thường hay đạp xe theo bác Siêu tới một
vài làng quê vùng ven nào đó cách Huế năm, mười cây số. Những lần đi như thế,
bác Siêu thường dạy tôi cách thực hành Phật pháp giữa cuộc vô thường. Bác gợi ý
sau này lên đại học nên chọn ngành y vì đất nước đang rất cần hàn gắn quá nhiều
vết thương.
Kết thúc chương trình phổ
thông, tôi nhìn lại xem như một cuộc du ngoạn. Kỳ thi tú tài một (1968) và tú
tài hai (1969) tôi đều đạt thứ hạng cao.
Kết quả học tập như thế,
con đường vào đại học của tôi khá rộng. Tôi có thể nộp đơn xin học bổng du học
Mỹ về giáo dục; du học Đức về triết, du học Úc, Tân Tây Lan học về hóa dầu...;
hoặc ở lại Huế học sư phạm hay y khoa. Tôi đã chọn y vì tôi thích nhiều hơn những
bí mật còn tiềm ẩn trong Con Người cả về tinh thần lẫn thể xác. Tôi chọn y vì
có thể giúp ích được nhiều người giảm bớt đau thương như gợi ý của bác Siêu.
Chương trình y khoa lúc bấy
giờ gồm bảy năm. Năm dự bị và sáu năm chính thức. Đó là chương trình y khoa tổng
quát (y đa khoa). Các sinh viên tốt nghiệp sau một kỳ thi, trình luận án được
công nhận là bác sĩ. Các bác sĩ được đào tạo tại các trường y lúc bấy giờ được
bổ nhiệm vào các bệnh viện từ trung ương Sài Gòn, Huế, đến các bệnh viện tỉnh. Không ai phải chạy vạy đút lót
xin việc như sau này trong chế độ Xã hội chủ nghĩa. Một số bác sĩ được
trường Y giữ lại, đưa đi học chuyên khoa tại ngoại quốc, về làm phụ giảng. Các
bác sĩ nam đến tuổi quân dịch được trưng tập vào quân đội, được phân bổ đến các
quân y viện hay các đơn vị tác chiến đã tỏ ra thành thạo tay nghề và lương tâm
chức nghiệp không thua kém các đồng nghiệp được đào tạo tại Sài Gòn hay ngoại
quốc. Cũng không có sự chênh lệch quá xa giữa các thế hệ bác sĩ về văn hóa hay
chuyên môn.
*
Để chính thức vào trường
Y, tôi phải qua năm dự bị còn gọi là năm học chứng chỉ SPCN. Chứng chỉ SPCN được
tổ chức tại trường đại học khoa học gồm 5 lớp. Hai lớp dự bị y khoa và ba lớp dự
bị khoa học. Giảng đường rộng nên chứa được cả trăm sinh viên.
SPCN là viết tắt của bốn
chữ: Sciences Physiques, Chimiques et Naturelles. Đây là chương trình khoa học
cơ bản nên từ việc dạy của các thầy cô, đến việc học của sinh viên, và các kỳ
thi học kỳ cũng như kết thúc rất nghiêm túc. Hai lớp dự bị y khoa có khoảng 200
– 250 sinh viên, nhưng chỉ có chừng 120 sinh viên hoàn thành chứng chỉ SPCN.
Các sinh viên thi hỏng chứng chỉ SPCN tìm đường khác cho tương lai của mình, hoặc
phải vào lính (nếu là nam).
Năm dự bị chúng tôi học
chương trình đại cương gồm nhiều môn học: Toán gồm các môn: Toán thống kê – xác
suất với thầy Lê Tự Hỷ, Tích phân vi phân với thầy Cao Doãn Nhơn, Tân đại số với
thầy Nguyễn Dương. Lý gồm các môn: Nhiệt học với thầy Thọ, Cơ học với thầy
Hoàng, Điện từ với thầy Thái. Sinh hóa học với thầy Cúc, cô Tuyết Mai. Anh văn
với thầy Tôn Thất Viễn Bào...Tất cả các môn khoa học đều có giờ thực hành ở
phòng thí nghiệm. Môn Sinh học: Làm các phẫu thức cây lá hoa, rồi vẽ lại các lớp
cấu thành: hệ sube, hệ lõi, các tế bào diệp lục... Mổ các con vật nhỏ như dán,
chuột, sán đũa, cá rô... Mổ xong ghim trình bày trên giấy bìa cứng các bộ phận
của nó như xúc biện của dán, hệ tiêu hóa của chuột, của sán... Vẽ lại các phẫu
thức ấy trên giấy rô - ki. Tôi nhớ có một người bạn mổ trình bày rất đẹp, nhưng
khâu vẽ chị ấy trình bày kém: chị vẽ con chuột không ra con chuột, con dán
không ra con dán, đành không theo học y được. Môn Vật lý: đo độ nhớt của các loại
dầu, tính sức căng bề mặt của các loại chất lỏng... Hóa học: thực hiện các phản
ứng thủy phân, acide hóa và kiềm hóa...
Cũng ở năm học này có một
môn học tôi rất thích dù chỉ là môn nhiệm ý ( không có trong chương trình thi):
“Con người và môi trường sống”. Đây là môn học mới do sáng kiến của thầy khoa
trưởng Nguyễn Văn Hai. Trong môn này sinh viên tự chọn và dịch một cuốn sách
khoa học ( không có sự kiểm soát của giáo sư). Cuốn sách tôi chọn là cuốn
Médecin sous les Tropiques của Pierre Fourré. Tôi đã dịch cuốn này với sự giúp
đỡ của cha Petitjean. Ngoài ra sinh viên còn được mời tham dự những buổi thuyết
trình hay hội thảo về nhiều vấn đề ngoài chương trình thuộc các lãnh vực xã hội,
tôn giáo, luật, kinh tế, văn học, nghệ thuật...
Tôi còn nhớ buổi nói chuyện
rất hay của thầy Tôn Thất Viễn Bào với đề tài: “From the volcanoes to the
rain”. Hay một bữa nói chuyện về thuốc ngừa thai của một dược sĩ tại hội trường
của viện đại học. Trong buổi nói chuyện này có sự tranh luận rất sôi nổi giữa
thầy khoa trưởng Nguyễn Văn Hai và thầy viện trưởng Lê Thanh Minh Châu: Có nên
có hay không có sự quảng cáo thuốc ngừa thai? Thầy Nguyễn Văn Hai là một nhà
giáo dục cấp tiến. Thầy muốn sinh viên nắm bắt một vấn đề thiết thực đối với xã
hội và tuổi trẻ: Vấn đề dân số và kế hoạch hóa gia đình. Thầy Lê Thanh Minh
Châu là người Công giáo: Vấn đề hạn chế sinh sản bằng biện pháp kỹ thuật động đến
tín điều của giáo hội. (Sự thực này mãi mấy ngày sau chúng tôi mới sáng tỏ khi
trao đổi với các bạn là giáo dân ở lớp Pháp văn của Cha Petitjean). Sau khi hai
vị giáo sư lãnh đạo trường và viện bày tỏ nhận thức, quan điểm của mình, đến lượt
sinh viên phát biểu. Sinh viên cũng chia làm hai cánh tự do bày tỏ ý kiến: Cánh
ủng hộ thầy khoa trưởng, cánh ủng hộ thầy viện trưởng. Cuộc thuyết trình biến
thành cuộc hội thảo: sôi nổi và tự do. Thầy viện trưởng không hề dùng quyền lực
áp đặt tư tưởng lên cấp dưới và sinh viên.
Một buổi thuyết trình
khác được tổ chức tại trường Luật do hai giảng viên rất trẻ thuyết trình, đề
tài là Quốc tế công pháp. Cả hai thuyết trình viên đều rất hùng biện, cung cấp
cho sinh viên chúng tôi các kiến thức sơ khởi và có tính cách lý thuyết về sự sự
bình đẳng giữa các quốc gia, và luật pháp quốc tế bảo đảm hòa bình, độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia trong Liên Hiệp Quốc... Các thuyết
trình viên còn cho biết mục tiêu, cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Đại hội
đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Quản thác, Ban thư ký và các tổ chức thành viên
như Lương – Nông, Văn hóa – Giáo dục...
Cuối những buổi nói chuyện
như thế thường là những buổi chiếu phim. Love Story, Spartacus, Docteur
Zivago... là những phim hay chúng tôi được xem sau những buổi nói chuyện này.
Mặc dù chương trình học
dày đặc các môn lý thuyết và thực hành, nhưng xen kẽ là những buổi nói chuyện
ngoại khóa khiến sinh viên thích thú.
Sau khi đạt chứng chỉ
SPCN để chính thức vào năm thứ nhất trường Y, các sinh viên phải qua một cuộc
thi vấn đáp.
*
Tại buổi thi vấn đáp:
Ban giám khảo gồm 9 vị
giáo sư: Bùi Duy Tâm, Lê Văn Bách, Nguyễn Văn Tự, Lê Xuân Công, Lê Bá Nhàn, Võ
Đăng Đài, Lê Bá Vận, Bùi Minh Đức, Nguyễn Mạnh Hùng. Các sinh viên được gọi vào
theo thứ tự a,b,c.
Sinh viên thí sinh ngồi
trên một bàn nhỏ đối diện với bàn các giáo sư giám khảo, lần lượt trả lời các
câu hỏi của từng vị giáo sư một.
Các câu hỏi đa phần thiên
về kiến thức tổng quát: văn hóa, xã hội, lịch sử, văn học nghệ thuật... Qua đó,
các vị giáo sư giám khảo đánh giá sinh viên có thích hợp với nghề y hay không.
Tôi không biết các bạn
tôi được hỏi và trả lời như thế nào. Phần mình, tôi xin ghi lại:
Câu hỏi đầu tiên thầy Bùi
Duy Tâm đặt cho tôi là: “Tại sao cô chọn ngành y? ”. Tôi đã trả lời
như những gì tôi đã viết ở trang đầu bài này. Tiếp theo thầy Bùi Duy Tâm hỏi: “Cô
có biết Trường Chinh và Trương Chính là ai không ?” Tôi trả lời rằng tôi
không biết Trường Chinh là ai, nhưng Trương Chính thì tôi biết: Trương Chính là
nhà nghiên cứu văn học dân gian của miền Bắc, tác giả cuốn sách Những bông hoa
dại. Giáo sư Bùi Duy Tâm hỏi tiếp: “Do đâu cô biết như thế?” Tôi trả lời
là hồi học trung học đệ nhất cấp, cô giáo dạy văn bảo học sinh sưu tầm ca dao tục
ngữ. Tôi chạy đôn chạy đáo “điền dã” trong tất cả các mối quan hệ. Đặc biệt,
cha tôi cho phép tôi sử dụng chiếc radio Philip của ông để tôi chờ nghe chương
trình dẫn giải ca dao tục ngữ do linh mục Nguyễn Văn Thích phụ trách trên đài
phát thanh Huế. Qua chương trình này tôi biết thêm nhiều chuyện, trong đó có chuyện
Trương Chính là tác giả cuốn sách Những bông hoa dại. Giáo sư Bùi Duy Tâm tỏ vẻ
hài lòng khi nghe tôi trả lời như thế.
Câu hỏi của thầy Võ Đăng
Đài: “Cảm nhận của chị về vị béo khi ăn phở?”. Tôi trả lời là tôi không
biết đích xác mùi vị của phở, vì tôi chưa được ăn. Tôi chỉ biết mùi vị của phở
qua một “phế phẩm” là xương phở còn được gọi là “xí quách”. Mỗi tối ngồi học
khuya nghe tiếng mõ lốc cốc, lốc cốc từ chiếc xe phở sắp tới trước đường, lòng
dạ chị em chúng tôi nôn nao vì sắp được mẹ mua cho mấy cục xương có mùi vị thật
hấp dẫn. Một vài rẻo thịt tuơi xác, mấy sợi gân và mấy vành sụn rã rời còn dính
trên các ống và đầu xương, các sợi tủy chực long ra trong lòng các ống tủy... tất
cả đều mềm lụn, thơm phức và béo ngậy, kích thích khứu giác, vị giác và cái bụng
đói cồn cào của chúng tôi. Nó giúp chúng tôi có thêm năng lượng để tiếp tục buổi
học khuya. Cái “phế phẩm” mà ngon lành như vậy huống hồ gì một tô phở nóng hổi
đầy đủ các thứ nguyên liệu và phụ gia. Nghe tôi trả lời, cả hội đồng giáo sư đều
phì cười.
Giám khảo thứ ba là thầy
Lê Văn Bách: “Hai câu thơ mà người Huế ai cũng biết: Khô héo là
gan cây đỉnh Ngự / Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương là của ai?” Tôi bật miệng
đọc luôn: “Con ơi ruột mẹ bấn như tương / Bảy nổi ba chìm quá thảm thương /
Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự / Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương. Tác giả bốn
câu thơ này là mẹ vua Duy Tân, vợ vua Thành Thái. Tôi mở cờ trong bụng vì cho rằng
mình đã “trúng tủ”, nhưng giáo sư Bách đã làm tôi tiu nghỉu với câu hỏi tiếp
theo: Mẹ vua Duy Tân tên gì? Tôi lấy làm xấu hổ vì không trả lời được.
Hội đồng giáo sư chỉ hỏi
tôi có chừng ấy và cho tôi ra về.
*
Kết quả tôi lọt vào top
20 /100 thí sinh chính thức được công nhận là sinh viên y khoa khóa 10 đại học
Y khoa Huế. Tin vui tiếp theo là tôi nhận được học bổng Y tế. Ngày đó trường Y
có hai loại học bổng: học bổng Quốc gia do bộ Giáo dục đài thọ, học bổng Y tế
do bộ Y tế đài thọ. Học bổng Y tế nhiều gấp 3 học bổng Quốc gia và được nhận một
lần vào cuối năm. Học bổng Quốc gia gần bằng lương của một công nhân tân tuyển
ngoại ngạch, đủ cho sinh viên ăn ở (tại ký túc xá và quán cơm sinh viên), và
các nhu cầu căn bản của đời thường.
Gần tới hè, nhận được học
bổng Y tế, tôi rất phấn khởi, lần đầu tiên có được một số tiền lớn như vậy. Tôi
tặng mẹ một phần ba, một phần ba sắm áo quần cho chính mình và các em, cũng tặng
các em mỗi đứa một ít, một phần ba còn lại tôi dành cho chuyến đi Sài Gòn sắp tới.
Năm nào cũng vậy, chuyến đi Sài Gòn nhằm mục đích mua sách ở Mỹ Hiệp và lục tìm
sách báo cũ trên vỉa hè Lê Lợi. Đến cuối hè 1974, tủ sách của tôi có năm báy
trăm đầu sách. Tôi mở một ngoặc đơn ở đây để nói với các bạn trẻ ngày nay rằng
là mỗi cuốn là một người bạn, cũng là một vị thầy, chúng ta tha hồ mà hỏi han
tâm sự. Các bạn thử tính xem, xong ba cấp học: tiểu, trung và đại học, các bạn
có bao nhiêu thầy cô và bằng hữu? Bốn năm mươi thầy cô chăng? Năm bảy chục bằng
hữu chăng? Hay nhiều hơn số đó? Các bạn cộng các thầy cô và bằng hữu đó với mấy
trăm bằng hữu và thầy cô là những cuốn sách, các bạn sẽ có một gia tài khấm khá
tri thức và tâm hồn. Đóng ngoặc đơn. Chuyến đi Sài Gòn đầu tiên bằng tiền học bổng
y tế, ngoài mục đích mua sách, thăm viếng..., tôi còn có mục đích canh cánh từ
sau cuộc thi vấn đáp để chính thức vào trường y là “ăn một tô phở”. Chuyến đi
Sài Gòn lần ấy tôi đi với Hoài, cô bạn cùng lớp thân thiết. Hoài có nhà ở Sài
Gòn nên trở thành người hướng dẫn tôi trong mọi chuyện. Hoài đưa tôi tới tiệm
phở nổi tiếng Miền Nam lúc bấy giờ, Phở Tàu Bay. Nếu tôi nhớ không nhầm, Phở
Tàu bay nằm trên đường Võ Tánh, số 47. Phở Tàu Bay di cư từ Hà Nội sau 1954.
Hoài nói mấy ông tướng gốc Bắc nghiện Phở Tàu Bay đến độ ra Huế hành quân, mỗi
sáng chờ máy bay của Air VN mang phở từ Sài Gòn ra để ăn điểm tâm.
Lần đầu đối diện với tô
phở, tôi bồi hồi xúc động bởi cái mùi thơm riêng biệt mà tôi không cảm nhận được
từ những tô bún bò hay những tô mỳ quảng đặc sản của quê nội và quê ngoại Huế -
Quảng của tôi. Rất nhiều gia vị phối hợp một cách hài hòa với nguyên liệu chính
là thịt xương bò hầm quấn quít lấy khứu giác tôi. Cái tô sứ màu trắng ngõa miệng,
cộng với màu xanh của hành ngò, màu nâu nhạt của mấy lát nạm, màu đỏ sẫm của mấy
lát tái, màu trắng sáng, màu trắng trong của bánh phở và nước dùng gây ấn tượng
một bức tranh nhỏ. Ở giữa hai tô phở của tôi và Hoài còn có một dĩa rau mùi gồm
ngò gai, húng quế, một khay nhỏ gồm một chai tương ớt màu đỏ, một chai tương đậu
màu nâu, một thẩu nhỏ ớt cắt miếng xanh đỏ dầm chua, một chai tiêu bột và một
chai nước mắm; còn có một dĩa nhỏ đựng mấy lát chanh. Hoài nói: “Những thứ
rau và gia vị này thực khách tùy nghi sử dụng ít nhiều hay không do yêu cầu của
từng người. Ai ăn mặn thêm nước mắm, Ai ăn cay thêm ớt ... Theo mình (Hoài),
nên vắt thêm lát chanh và ngắt thêm mấy lá rau thơm. Ăn phở nhiều lần mới tìm
cho mình một thói quen thích hợp...” Tôi vốn dị ứng với những gia vị chế biến
ngoài gia đình; vả lại, rất nôn nao trước sự mời gọi của tô phở còn bốc khói.
Tôi vắt chanh, ngắt rau bỏ vào tô và dùng đũa muỗng trộn theo lời Hoài. Những cảm
nhận ban đầu không hề mất đi khi tôi dùng đũa và muỗng chậm rãi đưa thức ăn vào
miệng rồi từ từ nhai, từ từ nuốt. Lúc này không còn màu sắc, chỉ còn mùi và vị
quyện vào nhau cho tôi những cảm nhận tinh tế và sâu sắc mà tôi chỉ có thể thầm
nói lên một tiếng: Ngon. Tiếng Ngon không chưa đủ. Nếu có tài văn chương, tôi
có thể mô tả những cảm nhận ấy bằng những thuộc từ chính xác và đầy đủ hơn.
*****
Năm thứ nhất trường Y Huế chúng tôi được học các môn học cơ bản. Các thầy đều là người Việt, dùng tiếng Việt nhưng các từ chuyên môn và sách tham khảo đều dùng tiếng Pháp, tiếng Anh, hoặc tiếng Đức (ít hơn). Các môn học gồm: Sinh lý (physiology) thầy Lê Văn Bách. Sinh hóa (biochemistry) thầy Võ Đăng Đài. Cơ thể học (Anatomy) thầy Lê Xuân Công. Mô phôi học (histiology) thầy Trà Văn Đỏ, thính giảng từ đại học Y Sài Gòn. Môn Sinh hóa học có phần thực tập tại phòng thực tập sinh hóa: pha chế các phản ứng, chế nghiệm viên phụ trách thực hành là dược sĩ Bội Tiên và kỹ sư hóa Lê thị Phước Hạnh. Môn cơ thể học có phần thực tập trên các mẩu xương người khô. Mỗi sinh viên chúng tôi có thể mượn các đầu lâu, xương tay chân đem về nhà để học. Vào năm thứ 2, thực hành môn cơ thể học có phần mổ xác. Trợ giảng phần thực hành này là bác sĩ Nguyễn Văn Chữ và anh Trần Tiễn Ngạc lớp trên tôi chừng 4 khóa.
Phòng mổ xác khá rộng, có
hai bàn. Đến ngày học mổ xác, bác Khôi nhân viên của trường vớt các xác từ hầm
formol đặt lên bàn. Sinh viên chia từng tốp nhỏ ba, bốn người dùng pince, kéo mổ
theo chỉ dẫn của các bác sĩ trợ giảng.
Lễ Machabée: Hằng năm sau
ngày khai giảng nhà trường tổ chức lễ Machabée, lễ cúng vong linh các thân xác
vô thừa nhận đã giúp sinh viên học hỏi. Lớp y năm thứ hai trực tiếp học là lớp
đứng ra tổ chức. Lễ được tổ chức theo cả hai nghi thức Công giáo và Phật giáo.
Tuy tổ chức đơn giản nhưng từ trong tâm thức của mỗi sinh viên đều cảm nhận được
cái trang trọng, kính cẩn và biết ơn bằng những nén hương, những lời cầu nguyện,
và cả nước mắt của không ít nữ sinh viên.
Vê phần lý thuyết, hầu hết
các thầy giảng bài và chúng tôi ghi chép, không có giáo án in sẵn. Ghi chép như
thế nào cho kịp lời thầy giảng, ghi tắt, lấy note, tốc ký tùy từng sinh viên,
sau đó vào thư viện đọc sách tham khảo thêm, soạn bài cho riêng mình. Sách tham
khảo hầu hết bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, không hề có sách tiếng Việt.
Các sách cơ bản về sinh
hóa như Biochemistry của Mary Campell, Medical biochemistry, Clinical
biochemistry, Biochemistry and genetic hoặc các sách về sinh lý như Medical
Physiology của Barett, Physiology của Stefan Silbernag là những sách đắt hàng ở
thư viện.
Nghe giảng, ghi chép và
soạn bài là như thế, nhưng học y trí nhớ rất quan trọng; không thuộc nằm lòng
không thể làm bài và thực hành được. Một đặc tính khác của sinh viên y khoa là
óc phân tích và tổng hợp, nếu không có khả năng này, không học được. Tôi còn nhớ
một câu hỏi trong bài thi Sinh hóa của thầy Võ Đăng Đài. “Hãy cho biết các
phản ứng chuyển biến của hạt cơm khi ăn từ miệng cho đến khi thành chất phế thải?”
Với cách thức ra đề như thế này, nếu học thuộc bài mà không nắm cơ chế, không
biết lý luận thì không thế nào làm bài được cho dù có mang theo tài liệu.
*
Qua hai năm học các môn
cơ bản, lên năm thứ ba chúng tôi đi thực tập bệnh viện buổi sáng, buổi chiều về
trường học lý thuyết.
Năm thứ ba về lý thuyết
chúng tôi bắt đầu học triệu chứng: triệu chứng học nội khoa, triệu chứng học
ngoại khoa, triệu chứng học sản phụ khoa.
Ở giai đoạn này những cuốn
sách triệu chứng học như Medical semiology của Bariety, Surgical semiology của
Leger, Osbstetric and Gynecology semiology là những sách cần thiết. Thế nhưng
không phải ai cũng mua được. Chúng tôi phải vào thư viện đọc, ghi chép về để học.
Khoảng cuối năm 1972 đầu năm 1973, nhà sách Ưng Hạ có bán một số sách y khoa dạng
photocopy của nhà sách Mỹ Hiệp Sài Gòn, sách có giá tương đối rẻ so với sách
nguyên bản nhập về, do vậy sinh viên có thể mua được, nhưng số hạng cũng còn ít
so với nhu cầu.
Phần thực tập tại bệnh viện:
chúng tôi được chia thành từng nhóm, mỗi nhóm gồm 4 hay 5 sinh viên y ba, ba
hay hai sinh viên y năm và một sinh viên nội trú (sinh viên y6). Mỗi nhóm do một
bác sĩ trợ giảng chỉ dẫn, theo dõi kèm kẹp và cho điểm cuối mỗi kỳ thực tập ở một
buồng bệnh.
Mỗi buổi sáng các sinh
viên đến sớm làm bệnh án theo dõi diễn tiến của bệnh. Năm thứ ba chúng tôi nhận
diện các triệu chứng, tổng hợp các triệu chứng thành hội chứng. Sinh viên năm
thứ năm thêm một bước nữa là tổng hợp các hội chứng để định bệnh, lý giải các
triệu chứng, tìm chẩn đoán phân biệt và theo dõi tiến triển. Sinh viên năm nội
trú xem như là một bác sĩ thực thụ: chẩn đoán, tìm biến chứng, theo dõi tiến
triển bệnh và điều trị. Sinh viên năm ba có gì chưa sáng tỏ hỏi thêm các anh chị
y năm, các anh năm thứ năm trao đổi hỏi thêm anh nội trú. Cứ thế chúng tôi cùng
nhau học hỏi, xem nhau như anh em. Đến giờ bác sĩ trợ giảng khám bệnh, các anh
vừa khám bệnh vừa giảng giải vừa cầm tay chỉ vẽ cho từng sinh viên năm ba chúng
tôi, vừa giảng cơ chế bệnh lý, cách điều trị cho các anh năm trên. Tất cả những
công việc trong ngày từ các em năm ba đến các anh chị nội trú mỗi người đều phải
ghi chép từng ngày vào sổ thực tập, cuối tuần nộp lại tại văn phòng bộ môn; các
thầy, các bác sĩ trợ giảng xem lại, sửa sai, phê bình, đóng góp ý kiến cho
chúng tôi. Khi ngồi viết lại những dòng ký ức này tôi thật sự xúc động khi lần
giở lại tập ghi chép thực tập năm xưa. Nhìn các thầy, các anh, sửa từng lỗi
chính tả, chua thêm tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức các từ y học, những câu
khen thưởng, những lời nhắc nhở cần đọc thêm sách gì, ở đâu... Nhờ sự tận tâm
chỉ vẽ trong những năm tháng thực tập ngày đó, chúng tôi mới có được những kiến
thức cơ bản khi bước những bước đầu tiên trong nghề Y.
Cũng cần nói thêm sinh
viên y khoa hồi đó đi thực tập tại bệnh viện ai cũng cặp kè những cuốn handbook
trong túi áo blouse. Handbook là những cuốn sách bỏ túi có đủ chuyên nghành:
Handbook medecin, handbook pediatric, handbook surgical... Những loại sách này có
thể gởi mua ở sách vỉa hè Sài Gòn. Một đôi anh chị còn có loại sách lớn hơn một
chút (cỡ 10x15) như Vademecum, Vademecum encyclopédique, Merck Manual.
Trong năm thứ ba, qua 9
tháng học tập chúng tôi đã qua ba khu bệnh lý: nội khoa, ngoại khoa, sản phụ khoa.
Tại khu nội thương, hai
bác sĩ trợ giảng là bác sĩ Bùi An Bình và bác sĩ Trần Lương Hoa trực tiếp cầm
tay chỉ việc, hàng tuần thầy Lê Văn Bách còn tổ chức trình bệnh và giảng giải
những trường hợp khó. Tại những buổi trình bệnh sinh viên chúng tôi học hỏi được
rất nhiều.
Tại khu ngoại thương các
bác sĩ trợ giảng là bác sĩ Tôn Thất Hứa, bác sĩ Tôn Thất Chiểu, bác sĩ Đinh Sơn
Thắng, bác sĩ Đỗ Như Đài trực tiếp hướng dẫn. Bác sĩ trưởng bộ môn Lê Xuân Công
cũng tổ chức những buổi trình bệnh cuối tuần. Thực hành bệnh lý ngoại khoa
chúng tôi được các đàn anh đàn chị chỉ dẫn tận tình từ cách dùng các loại
pinces, kéo, kìm... từ cách sử dụng kim cong, kim thẳng dần đến phụ mổ...
Bệnh lý học phụ sản có
các bác sĩ trợ giảng: Văn Quảng, Phan Xuân Tứ, Lê Duyêt Tảo trực tiếp chỉ dẫn.
Bác sĩ trưởng bộ môn Nguyễn Văn Tự cũng có những buổi trình bệnh giảng dạy
trong tuần. Cái vui cũng là cái khó của chúng tôi khi đi thực tập tại sản phụ
khoa là phải làm đầy đủ các chỉ tiêu được giao: bao nhiêu trường hợp sinh thường,
bao nhiêu trường hợp sinh con so... do vậy chúng tôi thường giành nhau nhận bệnh.
Nhiều lúc nghĩ lại thấy đời sinh viên y thật thú vị.
Hết năm thứ ba chúng tôi
có được kiến thức và kỹ năng căn bản về nội, ngoại, sản phụ khoa cả về lý thuyết
lẫn thực hành.
*
Năm thứ tư chúng tôi học
bệnh lý nhi khoa với bác sĩ Nguyễn Thị Tinh Châu và bác sĩ Hồ Đình Quế. Các
chuyên khoa lẻ: Mắt với bác sĩ Lê Bá Vận. Tai mũi họng với bác sĩ Bùi Minh Đức,
da liễu với bác sĩ Dương Đình Châu và bệnh Lao với bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế.
Năm thứ tư chúng tôi thực
tập tại khoa nhi nửa năm, tại các chuyên khoa lẻ nửa năm còn lại.
Ngoài bệnh lý nhi khoa, bệnh
lý mắt, bệnh lý tai mũi họng, bệnh lý da liễu, bệnh lao, năm thứ tư chúng tôi học
thêm các môn học cơ bản:
– Vi trùng, ký sinh trùng
(Bacteriology – Parasitology) với thầy Lê Bá Nhàn. Thực tập môn vi trùng, ký
sinh trùng chúng tôi được xem, đọc, học cách nhuộm các tiêu bản để nhận dạng
các loại vi trùng, ký sinh trùng.
– Giải phẫu bệnh lý
(Anapathology) với bác sĩ Tôn Thất Chiểu. Thực hành môn anapathology tại phòng
thực tập, chúng tôi xem, đọc và học cách làm các phẩu thức bệnh lý.
– Huyết học với bác sĩ
Villagoes (người Tây Ban Nha), thầy Villagoes giảng bài bằng tiếng Pháp với giọng
Tây Ban Nha nên rất khó nghe. Thực tập môn huyết học cũng được xem, đọc và làm
các tiêu bản bệnh lý huyết học.
– Dược lý học (
Pharmacology) với thầy Nguyễn Mạnh Hùng. Thầy Nguyễn Mạnh Hùng là người Việt
nhưng giảng bài bằng tiếng Pháp.
Trong năm ba và năm tư
chúng tôi học Y tế cộng đồng (Public Health) và Dịch tễ học (Epidemiology) với
các bác sĩ quân y Mỹ: Zerzavi, Candela (các bác sĩ này giảng bài bằng tiếng
Anh). Phẫu thuật nhi với bác sĩ Dupuis (bác sĩ Dupuis giảng bài bằng tiếng
Pháp).
Từ năm thứ tư, những cuốn
sách hầu như không một sinh viên y khoa nào không thể không biết là Harrison’
principles of internal medecine, Textbook of pediatrices của Nelson, Goldman
Cecil medecine. Chúng tôi chầu chực nhau để mượn ở thư viện. Thư viện trường y
hồi đó luôn đông sinh viên, tan trường ra về nếu đến chậm có khi hết chỗ ngồi.
Mùa thi thư viện mở cửa đến 8 hay 9 giờ đêm.
*
Lên năm thứ năm chúng tôi
quay trở lại học bệnh lý và điều trị. Phần bệnh lý nội thương (medical
pathology), bệnh lý ngoại thương (surgical pathology) và bệnh lý sản phụ khoa
(Gyneco – obstetrico - pathology); các thầy giảng dạy là thầy Lê Văn Bách, thầy
Lê Xuân Công, thầy Nguyễn Văn Tự.
Việc củng cố và phát triển
kiến thức của năm thứ năm như vậy vô cùng cần thiết, nhưng rồi chương trình năm
thứ năm của tôi cũng như những chương trình của hàng triệu sinh viên, học sinh
khác trên khắp miền Nam phải dừng lại nửa chừng, bởi vì miền Bắc và Mặt Trận
chuẩn bị tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh – Xuân 1975.
*****
Từ đầu tháng 2. 1975 quân
Cộng sản đánh chiếm thị xã Phước Long, 10 tháng 3 Ban Mê Thuột bị xe tăng Bắc
Việt nghiền nát, thành phố Huế kinh hoàng nhớ chết chóc Tết Mậu Thân 1968. Chợ
búa náo loạn những tin đồn, trường học rã rời, đường phố nháo nhác, hàng ngàn
gia đình bồng bế, gánh gồng di tản theo đường bộ, đường thủy vào Đà Nẵng. Đà Nẵng
hỗn loạn, sân bay, bãi biển tràn ngập người tị nạn. Lính tráng, dân thường, đàn
ông, đàn bà, người già, trẻ em mạnh ai nấy được, kiếm cho mình một chỗ trên máy
bay, trên ghe thuyền tư nhân và tàu hải quân. Bạo lực tháo chạy và bạo lực tấn
công không phân biệt gây chết chóc, tội ác và tuyệt vọng. Ngày 29 tháng 3 quân
Cộng sản chiếm Đà Nẵng. Gia đình tôi và hàng chục ngàn gia đình khác không may
mắn đành lục tục bồng bế gánh gồng quay trở lại Huế.
30.4 Sài Gòn thất thủ. Chiến tranh chấm dứt, nhưng bạo lực cách mạng
Xã hội chủ nghĩa kiểu Cộng sản bắt đầu. Trường học mở cửa lại theo lệnh của
chính quyền quân quản.
Khoảng 50% giáo sư, và
khoảng 90% sinh viên trường Y quay trở lại với tâm trạng “hàng thần lơ láo”. Bộ
khung cán bộ giảng dạy từ miền Bắc vào cùng với Ủy ban quân quản tách thầy trò
chúng tôi làm hai nhóm lao động buổi sáng và học chính trị buổi chiều. Đạo đức
xã hội chủ nghĩa được đúc kết thành vè “Lao động là vinh quang – Ngồi không ở
nể xóm làng cười chê”. Theo đó, người Cộng sản cho rằng chỉ có làm việc bằng
cơ bắp dưới chỉ trỏ của cán bộ đảng viên mới là lao động đúng nghĩa. Theo đó
người công nhân làm việc trong các nhà máy xã hội chủ nghĩa, người nông dân làm
việc trong các nông trường quốc doanh, các hợp tác xã nông nghiệp mới có giá trị
hơn hết, và đáng sống hơn hết. Các loại hình lao động sản xuất khác, các thành
phần xã hội khác cần phải được cải tạo theo mô hình và định hướng Xã hội chủ
nghĩa mới có lý do tồn tại. Giữa các buổi lao động và học chính trị, chúng tôi
phải tập hát Quốc tế ca và các bài ca ngợi đảng, ca ngợi bác, ca ngợi tình hữu
nghị vô sản quốc tế, ca ngợi quân đội nhân dân đã đánh thắng hai cuộc kháng chiến
thần thánh... Tôi còn nhớ một câu hát mà mỗi lần cất lên tôi cảm thấy đau đến
xé lòng: “Như có bác Hồ trong niềm vui đại thắng”.
Về lao động, chúng tôi phải
tập hợp thành đội ngũ dưới sự chỉ đạo của các đoàn viên (những tín đồ cộng sản
tân tòng, những cách mạng 30/4) cuốc xới các mảnh ruộng trước trường trồng rau
muống, đào xới bất cứ mảnh đất nào còn sót lại quanh trường để trồng khoai sắn.
Theo lệnh các đoàn viên lãnh đạo, chúng tôi vượt hàng rào phía đông bắc, phá vườn
hoa hồng rất đẹp của các nữ tu Công giáo để trồng rau lang. Lúc bấy giờ, qua
các “vị” này, chúng biết
được rằng rau muống, rau lang và lá sắn có hàm lượng dinh dưỡng không thua kém
thịt bò. Chúng tôi còn tham gia đào kênh thủy lợi nam sông Hương. Đây là
công trình thủy lợi trọng điểm của Thừa Thiên – Huế nhằm kéo nước từ sông Hương
băng qua núi đồi làng mạc phía tây nam thành phố để tưới cho 5000 mẫu ruộng thuộc
khu vực huyện Hương Thủy. Nhưng, nước không thể chảy ngược, nên nước không thể
về tới ruộng đồng theo ý chí của đảng Cộng sản, mặc dù hàng trăm ngàn công sức
lao động đã bỏ ra, hàng ngàn ngôi mộ và hàng trăm ngôi nhà phải di dời. Kênh thủy
lợi biến thành đường đi và hang ổ của chuột. Có người nói đây là biện pháp cải tạo
trí thức tiểu tư sản thành trí thức xã hội chủ nghĩa nói riêng, và cải tạo nhân
dân miền Nam nói chung.
Trí thức tiểu tư sản còn bị tẩy não bởi chương trình học chính trị. Chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa Duy vật biện
chứng, biện chứng lịch sử, Tuyên ngôn đảng Cộng sản, lịch sử đảng Cộng sản Việt
Nam, lịch sử phong trào Cộng sản quốc tế là những từ ngữ tôi còn nhớ cho đến
ngày nay với các khẩu hiệu: Trí phú địa hào – Đào tận gốc trốc tận rễ, Tôn giáo
là thuốc phiện của nhân dân, chủ nghĩa xã hội nhất định thắng – chủ nghĩa tư bản
nhất định thua, chủ nghĩa xã hội dân chủ một ngàn lần hơn chủ nghĩa tư bản, cải
tạo xã hội chủ nghĩa là ăn cướp những gì đã bị ăn cướp, cả nước tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội... Trong khi chúng tôi đang học chính trị và lao động xã hội
chủ nghĩa thì đảng Cộng sản tiến hành cải tạo Ngụy quân Ngụy quyền, cải tạo tư
sản công thương nghiệp và đổi tiền. Tư sản công thương Huế tập trung
trên hai dãy phố Trần Hưng Đạo và Phan Bội Châu với khoảng 100 cửa hàng bán lẻ
trong số đó có khoảng 10 cửa hàng có mặt tiền rộng ( 5 - 7 mét ) bị cải tạo. Ở
Gia Hội, An Cựu, Bến Ngự, Vỹ Dạ. Kim Long..., mỗi nơi cũng có vài cửa hàng chịu
chung số phận. Thực tế là các cửa hàng này bị ăn cướp: hàng hóa bị tịch thu,
nhà bị lấy, gia chủ bị đày đi ở nơi khác hoặc lùi về phía bếp. Độc giả đời sau
cần ghi nhớ là những gia đình bị cải tạo này trong chiến tranh họ đã đóng góp
cho “cách mạng” qua các cơ sở nội thành.
Cải tạo xong thì đến lượt đổi tiền. Đổi tiền hai lượt cách nhau mấy tháng. Không riêng gì tư sản, tất
cả nhân dân Miền Nam đều bị lột sạch, bất kể giàu nghèo. 1000 đồng tiền Ngụy đổi
lấy 01 đồng tiền cách mạng. Qua hai lần đổi tiền như thế từ tháng 6. 1975 gia
đình tôi có 6 nhân khẩu cầm hơi hàng ngày với ba khẩu phần được mua hàng tháng
tổng cộng 12kg gạo, 36kg khoai sắn mốc hay bột mì, bo bo, 1,5 kg thịt heo. Tôi
xin nói rõ hơn chuyện này: Gia đình tôi 6 người gồm mẹ, anh kế, tôi và 3 đứa
em. Anh kế tôi, tôi và em gái kế đều là sinh viên nên được cấp sổ gạo và tiền học
bổng mỗi tháng 15 đồng một người. Mẹ tôi và hai em đang học phổ thông không có
gì. Tất cả 6 người sống qua ngày với ba tiêu chuẩn như thế. Nhiều gia đình khác
còn bi đát hơn. Gia đình anh cả tôi chẳng hạn. Anh cả tôi là đại úy quân y Ngụy
đi học tập cải tạo, chị dâu tôi là cán bộ lưu dung đang giảng dạy tại trường Y.
Một mình chị với khẩu phần 4kg gạo, 12 kg khoai sắn, 0,5 kg thịt nuôi sống ba đứa
con dưới 10 tuổi. Chị Gái tôi còn bi đát hơn, chồng là sĩ quan Ngụy bị mất tích
trong cuộc tháo chạy mấy tháng trước. Chị là cán bộ lưu dung tại Thư viện đại học
Huế. Một mình chị với khẩu phần 4kg gạo, 12 kg khoai sắn khô, 0,5 kg thịt mỗi
tháng nuôi sống 4 đứa con dưới 10 tuổi và cha mẹ chồng. Còn có nhiều gia đình
bi đát gấp mười gấp trăm lần anh chị chúng tôi: Cha anh đi học tâp cải tạo chẳng
biết bao giờ về, anh vượt biên bị bắt, nhà cửa bị cướp, mẹ mất việc, con không
được vào đại học phải lê la đói khát đầu đường xó chợ hoặc phải đi kinh tế mới.
Tình cảnh chung của nhân
dân Huế và nhân dân miền Nam là như thế. Không có gia đình nào là không
bị cải tạo. Không Ngụy quân thì Ngụy quyền, không tư sản, trí thức thì cũng là
dân Ngụy đều bị cải tạo, có nghĩa là đều bị ăn cướp.
Như thế là từ chiến dịch tổng tấn công và nổi dậy mang tên Hồ Chí Minh mùa
xuân 1975, Cộng sản miền Bắc đã chiến thắng hai lần và nhân dân miền Nam đã
thua hai lần. Lần đầu là quân sự, lần sau là kinh tế, văn hóa, xã hội. Sau
hai lần thắng và thua, đất nước tan hoang, mấy triệu người vượt biên, mấy trăm
ngàn người đi học tập cải tạo, mấy chục ngàn người chết trong các nhà tù, mấy
triệu người bị làm nhục, chết trên biển, mấy chục triệu người lâm vào tình trạng
đói rách, tuyệt vọng. Công cuộc cách mạng long trời lở đất với khẩu hiệu “tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa” của ông Lê Duẩn và đảng
Cộng sản hoàn toàn thất bại. Thất bại này không chỉ là sai lầm mà còn là tội
ác, di hại chẳng biết đến bao giờ?
Đảng Cộng sản đã biến cả
dân tộc thành những con chuột bạch thí nghiệm cho một học thuyết, một ý thức hệ
ngu xuẩn họ học mót từ Nga từ Tàu. Cách mạng gì mà coi trí thức là kẻ thù hàng
đầu? Dân chủ gì mà đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối? Đạo đức gì mà dùng biện
pháp ăn cướp và bạo lực để cải tạo con người?
*
Trở lại câu chuyện trường Y
Sau lao động cải tạo và học
tập chính trị, trường Y và lớp Y5 của tôi lần hồi đi vào cơ chế xã hội chủ
nghĩa. Thêm một số thầy và sinh viên lẳng lặng bỏ đi Sài Gòn hoặc vượt biên.
Hai sinh viên lớp dưới tự tử không thành. Một anh nhảy lầu, một anh uống thuốc
độc. Một trong hai anh bất khuất này là con của một cán bộ tập kết trở về. Cha
con bất đồng chính kiến dẫn đến bi kịch.
Chương trình Y5 thuộc chế
độ cũ của tôi bỏ dở vì chiến sự nay bị đình chỉ hẳn. Để bù vào thời gian bị mất
do chiến tranh và thời gian lao
động tẩy não, ban giám hiệu quyết định lớp Y5 của tôi thay vì ra trường
vào hè 1976, nay kéo dài thêm gần một năm, tháng 6. 1977 chúng tôi mới tốt nghiệp.
Như thế, tôi trải qua năm năm rưỡi trường Y Việt Nam Cộng Hoà và một
năm rưỡi trường Y Xã hội chủ nghĩa. Một năm rưỡi Y Xã hội chủ nghĩa chủ yếu là đi cuốc đất trồng rau, đào
kênh thủy lợi; và thực tập tại bệnh viện. Trong một năm rưỡi Y Xã hội chủ nghĩa
này chia làm hai thời đoạn. Nửa năm đầu, ngoài thời gian lao động cải tạo và học
chính trị như đã trình bày ở trên, chúng tôi đi thực tập tại bệnh viện với các
giáo sư và giảng viên lưu dung: Lê Văn Bách, Nguyễn Văn Tự, Hoàng Trọng Châu,
Văn Quảng, Phan Xuân Tứ... Một năm cuối thực tập bệnh viện với hai bác sĩ của
“bên thắng cuộc”.
Trước năm 1975, trường Y
còn gọi là Đại học Y khoa có chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa. Giáo sư phụ
trách các bộ môn gọi là trưởng bộ môn. Nay (sau 1975) đại học Y Huế theo mô
hình miền Bắc, tổ chức chuyên khoa sau năm thứ tư. Lớp Y5 của tôi không theo mô
hình nào cả. Một nhóm nhỏ gồm 10 sinh viên trong đó có tôi được phân đi chuyên
khoa nhi (gọi là nhi sơ bộ) dưới sự dẫn dắt của bác sĩ Nguyễn Cước (chủ nhiệm bộ
môn) và bác sĩ Nguyễn Tấn Viên (trưởng khoa nhi bệnh viên Huế). Số sinh viên
còn lại tiếp tục học đa khoa.
Hai bác sĩ Nguyễn Cước và
Nguyễn Tấn Viên nghe đâu là những bác sĩ chuyên nhi hàng đầu của miền Bắc. Hai
vị này dù dày dạn kinh nghiệm lâm sàng nhưng chỉ nắm bắt bệnh trên triệu chứng,
xử lý có tính cách kỹ năng không ngoài các giáo trình tiếng Việt; về phần lập
luận cơ chế bệnh lý hầu như hai vị này mù tịt. Họ không sử dụng được ngoại ngữ
vì vậy mà cần có thời gian để “thầy” và “trò” hiểu biết nhau qua các từ chuyên
môn. Tôi có một kỷ niệm không thể nào quên với bác sĩ Cước: Một đêm trực tại
khoa nhi với cuốn Merk Manual, bác sĩ Cước bắt được tôi đang chú tâm đọc quyển
sách này. Ông đã tịch thu cuốn sách của tôi. Nghe nói ông đã đem sách của tôi
đi hỏi các thầy lưu dung và sau đó nhờ một đoàn viên đem trả lại cho tôi.
Một kỷ niệm khác với giáo
sư Tôn Thất Tùng.
Tại khoa ngoại bệnh viện
Trung ương Huế, chúng tôi gặp giáo sư Tôn Thất Tùng từ Bắc vào cùng anh con
trai của ông, bác sĩ Tôn Thất Bách. Trong một buổi giao ban, tôi trình bày một
trường hợp u trung thất (tumeur médiastine) chẩn đoán phân biệt với u lao
(tumeur tuberculosis), ông hỏi tôi PPD là gì, tôi đã trả lời PPD là từ viết tắt
của nhóm từ Purified Protein Derivative. Trong buổi giao ban chúng tôi hầu như
sử dụng toàn tiếng Pháp, giáo sư Tôn Thất Tùng tỏ vẻ rất ngạc nhiên. Tiếp theo
ông giảng giải về phương pháp “mổ gan khô”. Sau này tôi mới biết đó là “phương
pháp mổ gan nổi tiếng thế giới Tôn Thất Tùng”.
Giáo sư Tôn Thất Tùng có
lối giảng giải thiên về cơ chế bệnh lý giống các thầy giáo của trường Y Huế trước
1975 của tôi. Ông nói giọng Huế pha Bắc nhẹ nhàng và cử chỉ thân thiện, lịch
lãm. Đặc biệt tôi thấy ông rất vui khi nghe lại giọng Huế của tôi, có lúc ông
đã nhại tiếng: “như rứa đó nã...” Tôi có cảm tưởng ông như một lão trượng
đi xa bao năm nay trở về mái nhà xưa, tìm lại được những kỷ niệm thân thương
sau một thời gian dài ly biệt. Khi ra về, chúng tôi gặp lại anh Tôn Thất Bách tại
cổng bệnh viện; anh có vẻ lạ lẫm khi nhìn chúng tôi mặc áo dài.
*
Lớp Y5 của tôi ra trường
vào hè 1977. Nhóm mấy chục sinh viên đa khoa thi trước một hội đồng giám khảo gồm
các giáo sư lưu dung: Cuộc thi nghiêm túc, khó khăn nhưng cuối cùng đều được
công nhận tốt nghiệp vì ban giám hiệu mới quyết định như thế. Nhóm sinh viên
“nhi sơ bộ” của tôi chỉ thi với hai giám khảo là bác sĩ Nguyễn Cước và bác sĩ
Nguyễn Tấn Viên. Nói là thi cho oai chứ thật ra chỉ là một buổi trình bệnh cho
có lệ. Suốt cả năm qua hai vị bác sĩ của “bên thắng cuộc” có dạy thêm cho chúng
tôi bài học chuyên môn và đạo đức nào đâu!
Nhân đây tôi xin nói thêm
về khóa 10 Y khoa Huế của tôi: Có chừng 120 sinh viên dự bị, vào vấn đáp còn lại
chừng 80 sinh viên chính thức, cộng với số sinh viên năm trước ở lại thành ra tổng
số chừng 100 người. Tổng số chừng 100 sinh viên khóa 10 bị đào thải từ từ từng
năm một, cộng với hai người vượt biên sau tháng 5.1975, cuối cùng có chừng 40
được công nhận là bác sĩ. Kết quả này chứng tỏ đầu vào đại học Y Huế nói riêng
và các đại học khác trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa không khó lắm, nhưng qua học
tập, thi cử rất nghiêm túc nên đầu ra toàn là những người xứng đáng cả về mặt
chuyên môn lẫn đạo đức nghề nghiệp. Trong Xã hội chủ nghĩa thì trái lại: Đầu
vào quá khó khăn, nhưng học hành thi cử lại quá cẩu thả, dễ dàng, đầu ra nhằm
đáp ứng phong trào thi đua, càng nhiều càng tốt.
Trong hồi ký của mình,
bác sĩ Lê Quang Thông kể lại Kỷ niệm với thầy Lê Văn Bách rằng là có một bạn
cùng lớp chỉ thiếu nửa điểm môn Sinh lý đành phải ở lại lớp (Bay Vút – Lê Quang
Thông). Bạn tôi Trần thị Quí về ăn Tết ở Đà Nẵng, năm mới ra chậm một ngày thực
tập, thầy Lê Văn Bách không nói gì chỉ ghi vào sổ thực tập: ngày hè đi lại một
tuần. Đến hè, bạn ấy phải ở lại Huế một mình để đi thực tập thêm một tuần.
*
Sinh viên khóa 10 Y khoa
Huế còn học thêm Đông y theo sáng kiến của thầy Bùi Duy Tâm. Bác sĩ Trương Thìn
dạy về huyệt đạo. Bác sĩ Trần Văn Tích dạy đông dược và ông Võ Như Nguyện dạy
hán văn. Việc học Đông y chỉ diễn ra gần nửa năm, khi thầy Bùi Duy Tâm thôi chức
khoa trưởng, thầy Lê Bá Vận lên đảm trách thì môn Đông y bãi bỏ.
*****
Việc học sau đại học của tôi dưới mái trường xã hội
chủ nghĩa.
Năm 1986, Viện Nhi Hà Nội
mở lớp chuyên khoa I chính qui đầu tiên. Tiêu chuẩn cho bệnh viện Đà Nẵng là ba
học viên. Dĩ nhiên là ưu tiên cho các cấp lãnh đạo và đảng, đoàn viên. Các bác
sĩ đảng, đoàn viên, người thì bận rộn chuyện đấu đá tranh giành vị trí tại khoa
và tại các phòng, người thì bận chuyện nhà, chỉ có chị khoa trưởng buộc phải đi
học để có bằng cấp mà giữ ghế; tôi và một anh đồng môn đàn em sau ba khóa bị cắt
cử đi học. Ra Hà Nội học được một tháng, anh bạn đồng nghiệp bị gọi về không
cho học nữa vì sưu tra lý lịch “gia đình có nợ máu với nhân dân”. Một mình tôi
lang thang quanh Hà Nội. Hà Nội xanh đẹp nhưng nếp sống quả là quá xa lạ với
tôi... Xa lạ đến mức tôi không thể nghĩ nó là như thế...
Lớp học toàn là người miền
Bắc, đa phần là con ông cháu cha; các chị hàng ngày cứ chào xáo với nhau chuyện
mua hàng ở chợ Tôn Đản. Ngồi nghe thầy giảng bài mà hai tay các chị cứ thoăn
thoắt đan len. Chẳng nghe ai nói gì đến sách vở trong lúc tôi cố tìm hiểu họ
đang đọc và học sách gì? Tôi ở trọ tại nhà một người quen, chị bạn đang làm
nghiên cứu sinh lấy bằng phó tiến sĩ. Chị ấy hãnh diện khoe: “Thầy chủ trì luận
văn đi Thái Lan về tặng chị một chiếc xi-líp màu đỏ”! Tôi bộp chộp phản ứng liền:
Văn hóa gì mà lạ thế? Thầy tặng đồ lót cho học trò nữ! Chị bạn trả lời nhanh
không kém: “Chị lạc hậu quá rồi, không thực tế gì hết. Thời buổi này mà mơ mộng
như người Miền Nam thì lấy gì nuôi con?” Chị bạn tôi cũng là người miền Nam,
làm dâu trong một gia đinh tập kết là cán bộ cao cấp, đi chợ Tôn Đản, nhà ở khu
tập thể Trung Tự chỉ dành riêng cho cán bộ cấp bộ, thứ trưởng, mới ra Hà Nội có
mấy năm mà đã “tiến bộ” hơn người miền Nam như tôi đến muôn đời. Thời điểm 1986
cả nước đang đói, nhà chị bạn không thiếu thứ gì, nhưng vẫn chưa thấy đủ. Một
câu ca dao phổ biến ở miền Bắc: Tôn Đản là chợ vua quan / Vân Hồ là chợ
trung gian nịnh thần / Bắc Qua là chợ thương nhân /Vỉa hè là chợ nhân dân anh
hùng. Trong chế độ Cộng sản: vua quan và nhân dân anh hùng cách biệt một trời
một vực.
Việc học chuyên khoa I tại
Viện Nhi Hà Nội chẳng có bài bản gì, học ở các khoa phòng, thầy giảng tại giường
bệnh. Các thầy Chu Văn Tường (chuyên ngành tiêu hóa), thầy Lê Nam Trà (chuyên
ngành thận niệu) Thầy Khanh (chuyên ngành huyết học), cô Nguyễn Thị Thu Nhạn
(chuyên ngành nội tiết)... Tất cả các bài giảng lâm sàng cũng thiên về triệu chứng
học hơn là cơ chế bệnh lý học... Sau một năm học, nghĩ lại tôi chẳng thu hoạch
được gì về chuyên môn: không có cái gì mới, không có cái gì hay... Chỉ biết
thêm miền Bắc có lắm chiêu trò.
Giữa một Hà Nội 1986 ăn
kem Bờ Hồ với cái muỗng ăn phở, ăn bánh tôm Hồ Tây với cái rá nhựa đựng
rau...Nhưng rồi tôi khám phá ra một Hà Nội tinh tế ngàn năm văn vật. Một hôm nọ,
chị bạn – bác sĩ Minh Nguyệt mời đến nhà ăn bún ốc. Nhà bé tí tẹo như cái lỗ
mũi, là một góc chéo của một ngôi nhà cải tạo chia cho nhiều hộ gia đình. Bún ốc,
cái tên dân dã, nhưng gia chủ lại là một phần của tinh hoa Hà Nội còn sót lại,
còn bảo lưu những giá trị truyền thống một cách nhẫn nại và tự tin. Thức ăn được
bài trí rất đẹp với những dụng cụ đều bằng sứ. Bún ốc không phải là cao lương,
nhưng mỹ vị thì không chê vào đâu được. Sau bún ốc, tôi được mời tráng miệng với
chuối bà hương chấm cốm làng Vòng. Cũng rất nhiều mỹ vị sau món tráng miệng đặc
chất Hà Nội này. Thì ra, giữa Hà Nội điêu tàn do chiến tranh và sự cai trị thô
bạo của đảng Cộng sản còn có một niềm hy vọng.
*
Năm 1994 Đại học Y dược
thành phố Hồ Chí Minh mở lớp chuyên khoa II nhi chính qui đầu tiên. Tôi ghi
danh thi để theo học. Lý do duy nhất là muốn gần gia đình (chồng và các con tôi
đang ở Sài Gòn).
Thi đầu vào chỉ có hai
môn là ngoại ngữ và chuyên ngành nhi. Có 47 người tham gia thi, 9 người đủ điểm
để học. Lớp học do các giáo sư, phó tiến sĩ phụ trách: cô Tạ Thị Ánh Hoa và các
thầy Hoàng Trọng Kim, thầy Võ Công Đồng, thầy Nguyễn Trọng Lân...
Chúng tôi gồm bảy người
chia nhau đi thực tập tại các khoa phòng bệnh viện Nhi đồng I và Nhi đồng II,
tham gia giao ban ở các khoa, tham dự các buổi trình bệnh và báo cáo khoa học
chung với sinh viên trường Y, các bác sĩ chuyên khoa một, các bác sĩ làm nghiên
cứu sinh cao học. Về mặt lý thuyết: chương trình cập nhật các thông tin mới về
nhi khoa, đặc biệt là ba chuyên ngành: miễn dịch học, tim bẩm sinh, bệnh lý sơ
sinh. Ngoài các buổi lý thuyết và thực hành tại các bệnh viện nhi Sài Gòn, mỗi
năm ba tháng chúng tôi về lại nơi làm việc của mình thu thập dữ liệu, chuẩn bị
viết luận văn chuyên ngành. Cuối năm1997, chúng tôi trình luận văn tốt nghiệp.
*****
Như thế là tôi trải qua
11 năm học Y: 7 năm y tổng quát và 4 năm y chuyên ngành nhi trong hai chế độ.
Tôi đã làm bác sĩ gần 30 năm trong chế độ Cộng sản; nghỉ hưu 15 năm, trở lại bệnh
viện nhiều lần trong tư cách người bệnh. Thời gian học tập, hành nghề và chữa
bệnh đủ để tôi đưa ra nhận xét về hai chế độ y tế sau đây:
1/ Trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa:
Người học và làm nghề y tế,
gần như tuyệt đại đa số xem công việc của mình là một đam mê, đồng thời là sứ mệnh
nhằm phục vụ bệnh nhân là những Con Người. Họ đối xử với nhau tận tụy, thân ái
và tôn kính trong quan hệ thầy trò, đồng nghiệp. Họ đối xử với bệnh nhân hết
lòng trong công việc và ấm áp trong giao tiếp, quan tâm đến hoàn cảnh sống mà
không can dự vào đời tư của bệnh nhân.
Trong chế độ Việt Nam Cộng
Hòa bệnh viện được gọi là nhà thương. Ở đó người bệnh không phân biệt tầng lớp
xã hội và khác biệt chính kiến, tất cả đều được miễn phí hoàn toàn từ khâu ăn ở, chẩn đoán, điều trị,
thuốc men. Tại bệnh viện trung ương Huế, tôi đã thấy những bệnh nhân là
cán bộ Phong trào đô thị của Mặt trận. Tại quân y viện Nguyễn Tri Phương, tôi
cũng đã thấy những chiến binh miền Bắc được cấp cứu chung phòng với những binh
lính Việt Nam Cộng Hòa. Hoàn toàn không có chuyện bệnh nhân bị đùn đẩy, bị từ
chối, bị khai thác bóc lột, bị phân biệt đối xử. Đa phần các bác sĩ có phòng mạch
tư nhưng hoàn toàn không có chuyện công tư nhập nhằng, bệnh nhân không bị kê
đơn trái với yêu cầu chuyên môn, không bị chèo kéo lừa mị, bóc lột. Các công ty
dược không khống chế được các cơ sở y tế nhà nước từ bộ xuống các ty và chi,
cũng không khống chế được các bệnh viện và các phòng mạch tư. Sự thật này không
tuyệt đối, nhưng đại thể là như thế. Nhân đây cũng nói thêm về việc tuyển chọn
học viên cho các trường y tế trung sơ cấp và việc tuyển chọn sinh viên cho các
đại học y khoa: Mọi thanh niên nếu hội đủ các điều khiện sức khỏe, tuổi tác, học
vấn đều có cơ hội ngang nhau, không phân biệt thành phần xã hội, không phân biệt
giai cấp và ý thức hệ chính trị. Nói chung là đầu vào không khó lắm nhưng đầu
ra là khung cửa hẹp. Khóa 10 Y khoa Huế của tôi đầu vào chừng 200 – 250 ( ở 2 lớp
dự bị), đầu ra còn khoảng 40. Các khóa đàn anh về trước, kết thúc trong chế độ
Việt Nam Cộng Hòa đều có tỷ lệ gần như thế. Trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa mọi
sinh viên tốt nghiệp tại các trường: Sư phạm, Y khoa, Nông lâm súc, Kỹ thuật
Phú Thọ đều được bổ nhiệm theo yêu cầu của cơ sở chuyên môn và thành tích học tập
qua kỳ thi tốt nghiệp (chọn nhiệm sở theo thứ tự ưu tiên thứ hạng tốt nghiệp), không có chuyện đào tạo ra rồi bỏ
đó. Các bác sĩ được trả lương đủ để sinh sống cho cá nhân và gia đình.
Các bác sĩ có phòng mạch tư trở nên khấm khá bằng việc hành nghề chính đáng và
khả năng chuyên môn của mình. Tôi lớn lên ở Miền Nam, là nơi báo chí tự do
trong các lãnh vực đời thường (y tế, giáo dục...), chưa bao giờ tôi nghe một vụ
tai tiếng nghề nghiệp do các y, bác sĩ gây ra.
2/ Trong chế độ Cộng sản trái lại, nghề y thông thường
được xem là con đường làm quan đồng thời là nghề kiếm tiền như con buôn, thậm
chí như kẻ trộm cướp. (tôi nói thông thường
không có nghĩa là tất cả). Trong dân gian một thời phổ biến câu châm
ngôn: Nhất Y nhì
Dược, tạm được Bách khoa, Nông lâm qua loa, chuột chạy cùng sào mới vào Sư phạm. Quan niệm như vậy nên
cánh cửa vào trường Y mở đóng, rộng hẹp tùy theo người có quyền lực: đảng Cộng
sản. Một câu châm ngôn khác, thời bao cấp, thể hiện thứ tự quyền lực ấy: Nhất thân, nhì thế, tam tiền, tứ
chế. Thời kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa lại có
câu khác: Nhất hậu
duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, bốn trí tuệ (học giỏi-NTKT). Hai
ưu tiên đầu thuộc về con ông cháu cha trong đảng, ưu tiên thứ ba thuộc về người
có tiền chạy đúng cửa đảng viên chuyên trách, ưu tiên thứ tư thay đổi từ con em
gia đình có công trong chiến tranh, trong xây dựng xã hội chủ nghĩa sang những
học sinh giỏi. Tóm lại: Đảng và tiền gắn liền trường y và ngành y nói riêng.
Đầu vào như thế, đầu ra cũng như thế.
Chương trình đại học Y
trong chế độ Cộng sản kéo dài 6 năm. Một phần ba hay một phần tư thời gian
trong 6 năm ấy sinh viên còn phải học chính trị (chủ nghĩa Mác Lê Nin và lịch sử
đảng...). Quan hệ thầy trò trong chế độ Cộng sản vừa là quan hệ đồng chí, vừa
là quan hệ đối tác lợi quyền. Chương trình và chế độ đào tạo, học tập như thế
nên sinh viên ra trường chưa làm được việc xét về mặt chuyên môn lẫn đạo đức. Nếu
không thân không thế, bác sĩ ra trường còn phải chạy việc với giá cả không nhỏ
tùy vị trí công việc có kiếm ra tiền nhiều hay ít?
Đa phần, lương khởi đầu
hiện nay của bác sĩ chừng 3.000.000 (ba triệu). Đầu tư tốn kém, lương bổng èo uột
nên công việc chính của người bác sĩ trong chế độ Cộng sản là kiếm tiền và tạo
thế. Kiếm tiền trực tiếp từ bệnh nhân, từ kinh phí quảng cáo, từ tiền đút lót của
các công ty dược, các công ty vật liệu và trang thiết bị y tế tư bản nước
ngoài, từ ngân sách nhà nước, từ quỹ bảo hiểm, từ các loại thuốc quí hiếm trong
kho của bộ của các sở y tế hay các bệnh viện,... Kiếm tiền để trở thành đảng
viên, giành lấy một chức vụ kiếm ra tiền để lấy lại vốn, để kiếm lời. Người đảng
viên bác sĩ trong chế độ Cộng sản ăn bất cứ thứ gì: từ sữa của các em bé sơ
sinh, đến thuốc đặc trị của người bệnh ung thư, đến thủy tinh thể của người bị
bị bệnh mắt, đến que thử và hóa chất trong kiểm tra HIV... Một dược sĩ làm cho
một công ty dược nước ngoài nói với tôi rằng: Nền y tế của đất nước vận động
theo sự điều hướng của các công ty dược và các công ty vật liệu, trang thiết bị
y tế tư bản. Các công ty này gõ được cửa bất cứ nhân vật quyền lục nào từ trung
ương xuống địa phương. Những chìa khóa vàng lớn nhỏ được các công ty tư bản kia
sắm sửa để mở cửa các ông bà quyền lực. Để tranh giành các chìa khóa vàng, để
chiếm đoạt công quĩ, các ông bà quyền lực trong đảng Cộng sản đã đấu đá nhau
như kẻ thù, đã xem ngành y tế như một nghề béo bở để sắm xe sang, tậu nhà lớn
và tích lũy bất động sản...Người bác sĩ đảng viên bất chấp sức khỏe, mạng sống
của bệnh nhân và sự khốn cùng của gia đình họ.
Để kết thúc tôi xin kể
hai câu chuyện về hai bác sĩ đảng viên.
Câu chuyện thứ nhất: Ngày tôi về hưu một nhóm nhỏ đồng nghiệp mời
tôi một bữa cơm thân mật. Bữa cơm diễn ra tại quán “Cơm niêu đỏ” tại Đà Nẵng với
7 người. Bữa ăn gồm các món đặc sản Việt Nam: rau muống trộn tỏi, canh chua cá
lóc, cà tím nướng tỏi. Ăn xong cô phục vụ đem biên lại đỏ tính tiền tới, theo
thói quen các chị xúm lại xem tiền bao nhiêu, mắc rẻ như thế nào để lần sau còn
đi. Một chị đảng viên sau khi xem, xếp tờ biên lại đỏ lại, bỏ vào ví thản nhiên
nói:
“Cho tớ tờ biên lai đỏ
này, con dâu tớ làm kế toán cho một cơ quan, nó rất cần biên lại đỏ để thanh
toán”.
Tôi nghe người đảng viên
này nói xong, các thức ăn trong bao tử tôi chực trào ra...
Câu chuyện thứ hai: Cũng ngày tôi về hưu, một nhóm nhỏ khác mời
đi ăn nem lụi trong một buổi chiều chủ nhật. Ăn xong, mậu dịch viên đếm que
tính tiền, một đảng viên trong nhóm kể rằng: “Thằng Đ con mình nó thông minh lắm,
hồi mới năm tuổi đi ăn nem lụi như thế này nó đã giấu bớt que vào giỏ rác bên
dưới”. Chị bạn kể một cách rất hãnh diện, chân thật và hồn nhiên.
Tôi không nêu tên hai bác
sĩ đảng viên trong câu chuyện trên, bởi tôi nghĩ không cần thiết. Bạn đọc thử
nghĩ xem có đảng viên nào trong đảng Cộng sản mà không khôn ngoan như thế, từ tổng
bí thư trở xuống.
Nguyễn Thị Kim Thoa
No comments:
Post a Comment