Văn
Hoàng Hậu (Nguồn: RFA)
Jul 24, 2020
Trung Quốc dường như đang
đẩy mạnh chiến dịch kiểm soát Biển Đông và quần đảo Senkaku tranh chấp với Nhật
Bản ở Biển Hoa Đông mà Bắc Kinh gọi là Điếu Ngư. Bản chất những tuyên bố chủ
quyền hết sức mập mờ mà Trung Quốc đưa ra ở Biển Đông thực ra cũng không giúp
ích gì cho Bắc Kinh.
Tuyên bố “đường 9 đoạn” của
nước này, vốn bị cộng đồng quốc tế lên án, đôi khi dường như hoạch định các
tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đối với các thực thể đảo đá trong phạm vi đường
này. Nguy hiểm hơn là đôi khi Bắc Kinh nói bóng gió “đường 9 đoạn” này là đường
phân định biển, hoạch định quyền kiểm soát chủ quyền của vùng biển và vùng
không phận phía trên đường này.
Tòa nhà của chính
phủ Trung Quốc được chụp vào ngày 25 Tháng Bảy, 2012, ở “thành phố Tam Sa”
(Sansha City) trên đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc
đặt Sansha City trực thuộc tỉnh Hải Nam. (Hình minh họa: STR/AFP/GettyImages)
Nguy cơ Trung Quốc chiếm đoạt
Biển Đông
Hoạt động quân sự hóa của
Trung Quốc đối với nhiều thực thể nhân tạo ở Biển Đông đã “rõ như ban ngày.” Chỉ
có một điều ít được biết đến, song lại chứa đựng hệ lụy sâu xa là hoạt động
quân sự hóa này đem lại cho Trung Quốc năng lực ngày càng lớn mạnh để nước này
phô diễn sức mạnh không chỉ trong việc kiểm soát các đảo đá ở Biển Đông, mà
trong tương lai còn khẳng định quyền kiểm soát vùng biển xa và không phận trên
Biển Đông.
Bắc Kinh lâu nay cố gắng
xoay xở để lèo lái những nỗ lực giải quyết tranh chấp vào cơ chế đàm phán song
phương giữa Trung Quốc và các nước có cùng tuyên bố chủ quyền khác ở Biển Đông,
chia rẽ một cách hiệu quả cách thức phản ứng thống nhất của Hiệp Hội Các Quốc
Gia Đông Nam Á (ASEAN). Phản ứng của các nước trong khu vực giờ mới chỉ ở giai
đoạn khởi đầu. Những tuyên bố chủ quyền rộng lớn của Trung Quốc cũng tác động đến
nhiều nước ở bên ngoài Biển Đông.
Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn
Độ và nhiều quốc gia khác trên thế giới có những lợi ích thiết yếu trong việc sử
dụng các tuyến hải vận vì mục đích kinh tế, khoa học và quân sự. Việc duy trì một
luồng di chuyển mở và tự do thông qua các vùng biển xa và trong tương lai là
thông qua không phận đóng vai trò hết sức quan trọng.
Việc Tòa Trọng Tài theo
Phụ Lục VII của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982), hồi năm
2016 thẳng thừng bác bỏ yêu sách “quyền lịch sử” của Trung Quốc ở Biển Đông chỉ
khiến nước này gia tăng những nỗ lực xây dựng thực thể, quân sự hóa chúng và mở
rộng sự kiểm soát hành chính đối với sự hiện diện tàu thuyền các nước khác cũng
như mở rộng các hoạt động vượt ra phạm vi xa nhất của “đường 9 đoạn.”
Chính tính chất mơ hồ
mang tính chiến lược này của Trung Quốc (vốn cũng là đặc tính đối với các vấn đề
khác) có thể khích lệ cộng đồng quốc tế đương đầu với một cách giải thích khác
có phần u ám hơn về cách hành xử của Bắc Kinh – chính việc thiết lập các lực lượng
và vị thế trong khu vực mà về lâu dài, Trung Quốc có thể khẳng định quyền chủ
quyền đối với Biển Đông.
Cả thế giới cần hành động để
chống lại đe dọa từ Bắc Kinh
Việc diễn giải những hành
động của Bắc Kinh, mặc dù khó có thể chấp nhận, cần được coi là một khả năng có
thể xảy ra về mặt quân sự và là những nỗ lực hoạch định chiến lược trên khắp thế
giới với mục tiêu tránh được hệ quả xấu nhất. Điều quan trọng cần ghi nhớ rằng
quy mô và mức độ các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc là chưa từng có tiền lệ
theo luật lệ quốc tế và “không giống bất kỳ ai” ở bất kỳ đâu trên thế giới. Sự
miễn cưỡng đương đầu với viễn cảnh này có nguy cơ chấp thuận việc Bắc Kinh nắm
quyền kiểm soát lâu dài các hoạt động kinh tế và quân sự tại vùng biển rộng lớn
và quan trọng trong hệ thống đại dương trên thế giới, và thậm chí kiểm soát
vùng biển rộng hơn thế.
Việc thừa nhận những
tuyên bố chủ quyền rộng lớn của Trung Quốc đối với không phận rộng lớn trên Biển
Đông sẽ làm gia tăng nguy cơ xuất hiện một môi trường quốc tế trong tương lai,
trong đó những vùng không phận quốc tế chung bị khoanh vùng và bị kiểm soát bởi
những quốc gia đơn lẻ.
Cộng đồng quốc tế có thể
tin tưởng vào việc duy trì những vùng không phận quốc tế tự do và cởi mở để rồi
bảo vệ luật pháp quốc tế hoặc có thể không tin tưởng và không bảo vệ. Nhưng nếu
cộng đồng quốc tế không tin tưởng và không bảo vệ, thì khi đó khả năng Trung Quốc
thâu tóm vùng không phận rộng lớn trên Biển Đông sẽ đảm bảo đem lại những tuyên
bố chủ quyền tương tự đối với những vùng biển khác trên thế giới.
Để ngăn chặn nguy cơ này,
sự tập hợp của các nước ở quy mô rộng lớn hơn là cần thiết để đưa ra cách phản ứng
và đối phó tích cực và cương quyết. Cho dù các tuyên bố chủ quyền của các nước
đơn lẻ đối với các thực thể ở Biển Đông được giải quyết như thế nào, thì toàn bộ
thế giới đều có lợi ích trong việc được tiếp cận tự do và cởi mở đối với khu vực.
Hành động “khai hỏa” của Mỹ
trong việc chống lại Trung Quốc
Vì vậy, Mỹ cùng với các đối
tác và liên minh chủ chốt, cần dứt khoát liên hệ sự tiếp cận của Trung Quốc đối
với tài sản chung của thế giới với cách hành xử của Bắc Kinh ở Biển Đông. “Màn
khai hỏa” cho việc này chính là tuyên bố của Washington bác bỏ các yêu sách biển
của Trung Quốc, một động thái được khẳng định bởi việc nhóm tác chiến tàu sân
bay của Mỹ tiến hành tập trận ở Biển Đông.
Sau tuyên bố điều chỉnh
chính sách của Mỹ, Trung Quốc đã đẩy mạnh áp lực đối với các nước ASEAN để
không đưa ra tuyên bố ủng hộ quan điểm của Mỹ. Chẳng hạn, Ngoại Trưởng Trung Quốc
Vương Nghị đã khuyên người đồng cấp Philippines nên “coi trọng” mối quan hệ đã
được cải thiện từ năm 2016 giữa hai nước. Trong khi đó, Chủ Tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình đã nói với Thủ Tướng Singapore Lý Hiển Long rằng hai bên nên hợp tác
“vượt qua những sự phân tâm” để bảo vệ hòa bình và ổn định của khu vực. Dù vậy,
trách nhiệm của các nước ASEAN là cần phải thể hiện quan điểm rõ ràng, đúng
nguyên tắc với Bắc Kinh rằng họ đứng về phía luật pháp quốc tế, và việc này
không phải do Mỹ thúc ép, xúi giục mà họ đang bảo vệ các quyền chủ quyền chính
đáng cũng như các quyền lợi biển của mình.
Một tàu ngầm có hỏa
tiễn đạn đạo của Trung Quốc. (Hình minh họa: Mark Schiefelbein/AFP via Getty
Images)
ASEAN cần hành động
Phản ứng của các quốc gia
ASEAN trước hành động mới đây của Mỹ có nhiều khác biệt. Philippines tự thấy
mình là trung tâm của cuộc tranh chấp do phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực
năm 2016 được đưa ra theo UNCLOS liên quan đến những tranh chấp của nước này với
Trung Quốc. Cho đến nay, đây cũng là quốc gia thành viên ASEAN lên tiếng mạnh mẽ
nhất trong thời gian qua.
Nhân kỷ niệm bốn năm ngày
Tòa Trọng Tài ở La Haye ra phán quyết về Biển Đông hôm 12 Tháng Bảy, Ngoại Trưởng
Philippines Teodoro Locsin Jr đã nhấn mạnh tính bất hợp pháp của một số hoạt động
của Trung Quốc và sự cần thiết phải tuân thủ phán quyết của tòa.
Bộ Trưởng Quốc Phòng
Philippines Delfin Lorenzana cũng kêu gọi Trung Quốc tuân thủ phán quyết, đồng
thời mạnh sự cần thiết của một trật tự dựa trên quy tắc ở Biển Đông. Trong một
tuyên bố rõ ràng liên quan đến Bắc Kinh, Chủ Tịch Thượng Viện Vicente Sotto III
đã bình luận rằng “những hành động bất hợp pháp không bao giờ có thể trở thành
hợp pháp bởi những ý tưởng bất chợt và tham vọng của một cường quốc nước ngoài
coi toàn bộ Biển Đông là lãnh thổ của mình.”
Tuy nhiên, Văn Phòng Tổng
Thống Philippines đã đưa ra một tuyên bố thận trọng khi nhấn mạnh rằng mặc dù
chính phủ Trung Quốc khăng khăng từ chối tuân thủ phán quyết, Manila sẽ tiếp tục
“nhất trí không bất hòa” với Bắc Kinh. Văn phòng trên nhấn mạnh rằng không nên
để tranh chấp làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ song phương, đồng thời kêu gọi
hợp tác kinh tế chặt chẽ.
Các quốc gia khác trong
ASEAN thậm chí còn thận trọng hơn. Với lập trường lâu nay không phải là một bên
tham gia tranh chấp, Indonesia chỉ nhấn mạnh rằng sự ủng hộ của bất kỳ quốc gia
nào đối với các quyền của Indonesia ở Biển Natuna đều là “bình thường.”
Thường lên tiếng phản đối
Bắc Kinh ở Biển Đông, ngay cả Bộ Ngoại Giao Việt Nam cũng phản ứng với tuyên bố
của Ngoại Trưởng Mỹ Mike Pompeo bằng cách tránh chỉ đích danh Trung Quốc – một
động thái khác cho thấy họ muốn tránh khiêu khích Bắc Kinh. Một phản ứng chung
của ASEAN ủng hộ tuyên bố của Ngoại Trưởng Pompeo thậm chí còn ít hơn.
Mặc dù có thể ra một
tuyên bố chung chung nhấn mạnh tầm quan trọng của UNCLOS mà không đề cập rõ
phán quyết năm 2016 hoặc công khai chỉ đích danh hành vi của Trung Quốc ở Biển
Đông, nhưng điều đó sẽ được coi là không cần thiết vì ASEAN đã có quá nhiều các
tuyên bố chung chung như vậy. Trong khối gồm 10 quốc gia thành viên sẽ có sự phản
kháng đối với một tuyên bố chung rõ ràng ủng hộ tuyên bố của ông Pompeo vì một
số lý do.
Một số chính phủ ASEAN
không muốn gây nguy hiểm cho mối quan hệ song phương của họ với Bắc Kinh, đặc
biệt là những nước có mối liên kết kinh tế chặt chẽ. Một số chính phủ ASEAN
cũng có thể coi tuyên bố của Ngoại Trưởng Pompeo như một phần của sự cạnh tranh
ngày càng mạnh mẽ giữa Mỹ và Trung Quốc – bất kể tuyên bố đó được đóng khung
trong các điều khoản pháp lý hay từ quan điểm về trật tự quốc tế dựa trên quy tắc
– và sẽ không muốn tham gia cuộc cạnh tranh đó
Cũng cần phải chỉ ra rằng
một số chính phủ ASEAN có thể muốn suy nghĩ về sự phân nhánh của bất kỳ hành động
tiếp theo nào của Mỹ sau tuyên bố của Ngoại Trưởng Pompeo, đặc biệt là các biện
pháp trừng phạt đối với các công ty Trung Quốc liên quan đến các hoạt động cải
tạo, xây dựng và quân sự hóa của Bắc Kinh ở Biển Đông. Bất kỳ lệnh trừng phạt
nào của Mỹ đều có khả năng làm ảnh hưởng đến các khoản đầu tư của Trung Quốc
vào Đông Nam Á, đặc biệt là phát triển cơ sở hạ tầng theo sáng kiến “Vành Đai
và Con Đường.”
Một số quốc gia thành
viên ASEAN có thể muốn đứng trung lập và theo dõi các hành động tiếp theo từ Mỹ.
Tất nhiên, có những lo ngại không thể tránh khỏi giữa các quốc gia thành viên
ASEAN rằng tuyên bố của ông Pompeo có thể làm gia tăng căng thẳng, đặc biệt là
nếu Bắc Kinh và Washington vẫn tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động của họ. Khả năng
Trung Quốc sẽ có phản ứng cứng rắn hơn chống lại Mỹ trong vùng biển tranh chấp
làm dấy lên nỗi ám ảnh về các sự cố mang tính khích động có thể xảy ra giữa các
lực lượng hàng hải hoạt động gần đó.
Tuy nhiên, tuyên bố của
ông Pompeo và dự đoán về căng thẳng ở Biển Đông leo thang lại có thể thúc đẩy
ASEAN tìm cách đẩy nhanh và kết thúc sớm các cuộc đàm phán với Bắc Kinh về dự
thảo Bộ Quy Tắc Ứng Xử ở Biển Đông (COC). Điều này sẽ giúp giảm thiểu các cú sốc
tiềm năng đối với hòa bình và ổn định khu vực, và khẳng định sự liên quan cũng
như tính trung tâm của khối ASEAN. Trung Quốc có khả năng ủng hộ điều tương tự,
nếu việc đạt được bộ luật ứng xử như vậy là một minh chứng cho khả năng xử lý
tranh chấp của họ một cách hợp lý mà không cần “sự can thiệp” của các quốc gia
khác. Tuy nhiên, việc kết thúc đàm phán về COC vội vàng như vậy có nguy cơ tạo
ra một thỏa thuận dưới mức tối ưu.
Có lý do để lo ngại về điều
đó. Đã đến lúc ASEAN phải đoàn kết, ngay cả khi các quốc gia thành viên chọn
cách tránh xa cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc. Hình thành một lập trường thống
nhất hơn về COC sẽ là giải pháp cần hướng tới. Một ASEAN chủ động nên dẫn đầu
thay vì tuân theo sự dẫn dắt của các cường quốc ở Biển Đông – cho dù đó là
Trung Quốc hay Mỹ.
No comments:
Post a Comment