Thanh
Trúc, RFA
19/06/2020
“Già trước
khi giàu: thử thách của Việt Nam”, là bài viết của
nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp,
sau khi thủ tướng Việt Nam công bố Quyết Định 588 thực hiện Chiến Lược Dân
Số nhằm bảo đảm phát triển nhanh và bền vững cho đất nước.
Từ bài tham luận bằng Anh
ngữ trên website ISEAS Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á ở Singapore hôm 16/6, tiến sĩ
Lê Hồng Hiệp phân tích sâu hơn về vấn đề dân số Việt Nam trong một tương
lai gần:
“Trước tiên phải nói
dân số là vấn đề quan trọng vì nó ảnh hưởng không chỉ tới tình hình kinh tế-xã
hội mà nếu nhìn xa hơn thì nó còn ảnh hưởng tới vấn đề địa chính trị, tại
vì dân số là một phần tạo nên sức mạnh quốc gia”.
Quyết Định 588 do thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc ký ban hành hôm 5/5, được nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp đề cập
chi tiết trong bài viết tiếng Anh của ông, bao hàm vấn để dân số với chương
trình do ông Nguyễn Xuân Phúc phê duyệt nhằm điều chỉnh mức sinh phù hợp
các vùng, đối tượng đến năm 2030”, cụ thể khuyến khích nam nữ kết
hôn trước 30 tuổi, phụ nữ nên sinh đưa con thứ hai trước 35 tuổi.
Quyết Định còn hứa hẹn nhiều
cái được cho mỗi hộ gia đình sinh 2 con như: mua nhà xã hội, con cái được ưu
tiên vào trường công lập với hỗ trợ chi phí giáo dục trẻ em, tạo điều kiện cho
phụ nữ sau sinh trở lại nơi làm việc, giảm thuế thu nhập cá
nhân, miễn các khoản đóng góp công ích theo hộ gia đình, xây dựng mô hình quản
lý, phát triển kinh tế gia đình.
Nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp
cho rằng đây là những biện pháp kịp thời và chủ động, là nỗ lực trẻ hóa đất
nước vào khi dân số Việt Nam đang bị lão hóa từ năm 2011.
“Dân số già hóa, bước vào tình trạng suy giảm, không
chỉ ảnh hưởng tới phát triển kinh tế của đất nước rồi là áp lực lên hệ thống an
sinh xã hội, mà nhìn xa hơn nó có thể làm suy yếu sức mạnh quốc gia và có thể
gây ra những hệ lụy về an ninh”
“Chính vì vậy quyết định
588 của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, trong đấy có một số biện pháp để duy
trì tổng mức sinh thay thế, đảm bảo qui mô dân số cũng như lực lượng lao
động ổn định trong tương lai”.
Đây cũng là tầm nhìn dài
hạn để Việt Nam không rơi vào tình cảnh dân số bị lão hóa và lực lượng lao động
suy giảm mà hiện tại các nước trong khu vực cũng như các nước ở Châu Âu đang phải
đối mặt.
Hình minh hoạ. Một
y tá chăm các trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương ở Hà Nội hôm
6/5/2020 AFP
Quyết định 588 của thủ tướng
chính phủ, với đề nghị kết hôn sớm và có 2 con trước 35 tuổi, đã gây khá nhiều
tranh cãi trên các mạng xã hội trong nước, tiến sĩ Lê Hồng Hiệp viết tiếp, đặc
biệt liên quan đến ý kiến được cho là áp đặt trách nhiệm tài chính lên trên những
người không mong muốn có con.
Tuy nhiên tác động quan
trọng nhất mà Quyết Định 588 mang lại là dù như một quốc gia trẻ với một lực lượng
lao động dồi dào như Việt Nam thì hiện tượng dân số quốc gia đang già đi là một
thực tế đáng lo:
“Tôi cho rằng những biện
pháp này là kịp thời và chủ động, giúp Việt Nam kềm hãm đà lão hóa dân số đang
diễn ra, đối phó được với những hậu quả của tình trạng già hóa dân số trong
tương lai” .
“Lâu nay chúng ta vẫn nghĩ rằng Việt Nam là một
quốc gia trẻ, đa phần là thanh niên, 60% dân số dưới 35 tuổi. Điều này hẳn
nhiên không còn đúng nữa vì kể từ 2011 Việt Nam đã bước vào giai đoạn lão hóa.
Nếu tình hình không được cải thiện, tức là mức sinh thay thế không được duy
trì, thì trong vòng 20 năm tới Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn mà số người trong
độ tuổi 60 sẽ chiếm khoảng 1/5 dân số, tạo áp lực rất lớn đối với kinh tế
xã hội và an ninh, nếu số lượng trẻ sinh ra hàng năm không đủ để duy
trì mức thay thế đảm bảo qui mô dân số ổn định của Việt Nam.”
Dân số Việt Nam đạt 92
triệu 200 ngàn vào năm 2019, số người trong độ tuổi 15 đến 65 chiếm 68%. Nhìn
chung trong tổng số dân thì 24,3% dưới 15 tuổi và 7,7% trên 65 tuổi.
Đối với nhà nghiên cứu Lê
Hồng Hiệp, có thể nói Việt Nam vẫn đang tận hưởng điều gọi là “ golden age, lao
động vàng”, qua đó một người không làm việc có thể được hỗ trợ bởi 2 hoặc
trên 2 người có sức lao động. Thực tế hay cơ cấu này phản ảnh cơ hội vô cùng
quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Một dân số trẻ trung, tiến
sĩ Lê Hồng Hiệp viết, chính là yếu tố hấp dẫn đầu tư bên ngoài vào thị
trường mở của Việt Nam.
“Thách thức đối với
các chính sách này của Việt Nam là trong thời gian qua tỷ suất sinh đã bước vào
xu hướng giảm. một số địa phương không đạt mức sinh thay thế . Điều này cũng dễ
hiểu, đặc biết ở các thành phố lớn, nhiều thanh niên có cảm giác họ không đủ điều
kiện để có thể kết hôn sớm hoặc sinh 2 đứa con vì chi phí để duy trì cuộc sống
gia đình như vậy rất đắt đỏ. Vì vậy rất nhiều người ngại kết hôn và ngại
sinh con. Đây cũng là thực trạng không chỉ Việt Nam mà nhiều nước khi bước vào
ngưỡng thu nhập trung bình và thu nhập cao, có xu hướng kết
hôn muộn và không sinh nhiều con. Điều này đã thấy ở những nước trong khu vực
là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và ngay cả Trung Quốc. Việt Nam đang
bước vào con đường tương tư khi mà tỷ suất sinh ở một số thành phố lớn, như
thành phố Hồ Chí Minh chẳng hạn, chỉ 1,36 con trên 1 phụ nữ, rất cách xa mức
sinh thay thế, tức khoảng 2,1 con trên 1 phụ nữ”.
Trước Việt Nam thì đã có
nhiều nước trên thế giới khuyến khích thanh niên sinh con, đưa ra những biện
pháp khác nhau trong đó có biện pháp hỗ trợ về mặt tài chính. Các cặp vợ chồng
sinh con nhiều được trợ cấp nhà ở hay trợ cấp nuôi con chẳng hạn. Tuy nhiên, tiến
sĩ Lê Hồng Hiệp trình bày tiếp, không phải biện pháp nào cũng hiệu quả, nhiều cặp
vợ chồng vẫn không muốn sinh con để được hưởng ưu đãi vì cảm thấy việc sinh đẻ
không chỉ là áp lực tài chính mà còn liên quan tới sức khỏe, nghề nghiệp,
kể cả cơ hội hưởng thụ cuộc sống:
“Tôi e rằng kể cả khi
Việt Nam có định hướng, chính sách khuyến khích kết hôn sớm và có con sớm thì
chưa chắc đã thành công. Việt Nam phải có thêm nhiều chính sách khác nhau để đối
phó với tình trạng già hóa dân số trong tương lai”
“Theo tôi một trong những biện pháp quan trọng là phải
nâng cao năng suất của lực lượng lao động, khi mà việc khuyến khích kết hôn sớm
và sinh con không thành công. Với trình độ và kỹ năng lao động cao hơn thì Việt
Nam vẫn có thể chu cấp được cho số lượng người phụ thuộc mà sẽ càng ngày
càng tăng trong tương lai”
Duy trì mức sinh thay thế,
nâng cao hiệu quả năng suất lao động, là hai việc song hành với nhau thì mới đạt
giải pháp lâu dài cho vấn đề lão hóa dân số, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp nhấn mạnh.
Ông nói nhìn vào những
con số sẽ thấy một thách thức nữa, đó là sự chênh lệch trong sinh suất
vùng miền:
“Quyết định 588 cũng đề cập rõ rằng ở Việt Nam tỷ suất
sinh chênh lệch nhau giữa các vùng miền. Một số vùng phía Bắc chẳng hạn,
tỷ suất sinh còn hơi cao, tức là trên mức sinh thay thế và cần được kéo
giảm xuống khoảng 2.1%. Trong khi đấy Đông Nam Bộ hay Tây Nam Bộ thì tỷ
suất sinh đang quá thấp và cần được nâng lên để mà đạt mức sinh thay thế”.
“Thành phố Hồ CHí Minh chẳng hạn, tỷ suất sinh chỉ
1,36 con/1 phụ nữ, Đồng Tháp thì 1,34, Bà Rịa Vũng Tàu 1,37, Hậu Giang 1,53…Tỷ
suất sinh này thấp hơn mức sinh thay thế, không đủ bù đắp và duy trì dân số bất
chấp việc nhiều vùng có 2,5 đến 3 con. Đó là lý do chính phủ Việt Nam phải
đề xuất chính sách nhằm đảm bảo mức sinh trên qui mô toàn quốc chứ không phải mức
sinh chênh lệch vùng miền như hiện nay”.
Thời kỳ lao động vàng của
Việt Nam dự kiến kết thúc năm 2040, các chuyên gia lo rằng dân số nước này sẽ
già trước khi giàu. Điều này cũng được chuyên gia Lê Hồng Hiệp nhắc tới trong
bài viết của ông:
“Theo tôi nguy cơ đấy
hoàn toàn có thể xảy ra . Việc mà Việt Nam có nền kinh tế với độ mở cao, việc
đi sâu sát với nền kinh tế thế giới không tác động nhiều tới triển vọng gọi
là già trước khi giàu”.
“Nguy cơ già trước khi giàu phụ thuộc nhiều vào
năng suất lao động . Làm sao nâng cấp kỹ năng lao động và leo lên cao hơn trên
thang giá trị trong chuỗi cung ứng toàn cầu để có thể tạo thu nhập
cao hơn mới có thể thoát bẫy thu nhập trung bình”.
“Trong thời gian qua Việt Nam đã cố nâng năng suất
lao động, khuyến khích đầu tư các nghành công nghệ cao, thu hút đầu
tư bên ngoài vào lãnh vực này, tôi cho đó là những bước đi đúng hướng”.
Nâng cao được năng suất
lao động, nâng cao được hàm lượng giá trị gia tăng sản phẩm của mình
trong các ngành nghề, kết hợp với việc khai thác các nguồn lực
nguồn vốn từ bên ngoài thì hy vọng các biện pháp tổng hợp đó có thể giúp người
dân vươn lên mức thu nhập cao trong tương lai, đồng thời giảm bớt
nguy cơ già trước khi giàu.
Dân số, theo chuyên gia
Lê Hồng Hiệp, không đơn thuần là vấn đề xã hội hay kinh tế, mà còn là vấn
đề địa chính trị và an ninh quốc phòng. Mong rằng trong thời gian tới, ông nói
tiếp, người dân Việt Nam sẽ chú ý hơn, nhận thức đúng hơn về vấn đề dân số,
mong rằng bản thân các chính sách về chiến lược dân số Việt Nam đề ra sẽ
thành công để có thể hóa giải mối nguy già đi trước khi được giàu lên.
No comments:
Post a Comment