Võ
Ngọc Ánh
24/04/2020
Công hàm do
ông Phạm Văn Đồng, thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Cộng) ký
vào tháng 9/1958, là sự tiếp tay cho Trung Cộng trong việc xâm chiếm lãnh hải của
Việt Nam.
Ngày 17/4 vừa rồi Trung Cộng
đã gởi công hàm lên Tổng thư ký Antonio Guterres phản đối công hàm phía Việt
Nam gởi ngày 30/3/2020. Một lần nữa lại đưa ‘bảo bối’ công hàm do ông Đồng ký
vào năm 1958 để khẳng định Cộng Sản Việt Nam đã thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa
thuộc về họ.
Công hàm 1958,
không thể để mình ông Phạm Văn Đồng gánh tội
Ngày 4/9/1958 chính quyền
Trung Cộng công bố quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc. Theo bản
tuyên bố này, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về quốc gia này.
10 ngày sau, chính quyền
Việt Cộng nhanh chóng đồng ý với nội dung công bố trên của Trung Cộng.
Trong cuộc chiến tranh ý
thức hệ với người anh em miền Nam, chính quyền miền Bắc nghĩ, Hoàng Sa, Trường
Sa thuộc về các đồng chí Trung Cộng còn hơn để trong tay chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa. Có thể lãnh đạo miền Bắc trao lợi thế cho Trung Cộng để đạt được lợi thế
chính trị nào đó với Việt Nam Cộng Hòa. Và có lẽ họ chưa nghĩ đến đất nước thống
nhất, lãnh hải sẽ rơi vào tay đồng chí láng giềng.
Với cách làm chính trị của
các lãnh đạo miền Bắc, rõ ràng ông Đồng không thể tự ý ký công hàm này mà chưa
có sự đồng ý, chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị đảng Lao Động Việt
Nam. (Đảng Cộng Sản lúc này đã tự đổi tên thành đảng Lao Động Việt Nam từ tháng
2/1951, và quay lại tên cũ vào vào tháng 12/1976).
Do đó, hành động chính xác cho công hàm này là bán nước trong sự ngây
thơ của cả bộ máy lãnh đạo cao cấp nhất đảng Cộng Sản Việt Nam lúc đó. Đảng Cộng Sản Việt Nam tôn ý thức hệ của mình
lên trên tất cả, đưa chủ quyền quốc gia xuống hàng thứ yếu. Điều này đang mang
đến nhiều bất lợi trong việc đấu tranh chủ quyền lãnh hải của Việt Nam trước sự
tham lam lãnh hải của Trung Cộng.
Vì thế, Bộ Chính Trị đảng
Cộng Sản, ông Hồ Chí Minh, là người có ảnh hưởng quyết định trong lúc đó, không
thể vô can. Để chỉ một mình ông Đồng gánh tội là chưa đủ. Cần nhìn nhận thẳng thắng, đây
là sai lầm nghiêm trọng của đảng Cộng Sản và cả ông Hồ.
Cũng không thể giải thích
mập mờ như ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, thuộc Bộ
Ngoại giao Việt Nam vào ngày 23/5/2014. Theo đó, ông Hải gọi công hàm của ông Đồng
là “công thư”. Một văn bản ngoại giao mà không giải thích nó có tính pháp lý,
thừa nhận gì không, hay chỉ hỗ trợ ngoại giao.
Đến tháng 2/1974, khi Trung
Cộng đánh chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa, báo chí, sách vở, tuyên truyền
của miền Bắc vẫn bịt mắt giữ vững lòng tin, lừa dân, “Trung Quốc lấy Hoàng Sa
cũng vì lấy cho ta”.
Công Hàm Không Có
Giá Trị Pháp Lý
Người Việt có thể vin vào
điều kiện thực tế lúc đó để lý giải có lợi cho mình. Công hàm được chính quyền
Việt Cộng đồng ý với Trung Cộng không thể có giá trị pháp lý. Bởi vì quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa lúc đó thuộc sự quản lý của chính quyền miền Nam theo hội
nghị tại San Francisco, ở Mỹ vào tháng 9/1951 về lãnh thổ sau chiến tranh thế
giới thứ hai.
Trên thực tế, quân đội Việt
Nam Cộng Hòa đã đồn trú tại hai quần đảo trên. Trung Cộng chưa có mặt ở đó.
Do đó, tuyên bố của chính
quyền miền Bắc không thể có giá trị. Bởi chính quyền Việt Cộng không thể thừa
nhận cho cái đang không thuộc về mình.
Để đấu tranh trong chủ
quyền Hoàng Sa, Trường Sa hiện nay, nhà cầm quyền Việt Nam không thể phủ nhận
Việt Nam Cộng Hòa không phải là một quốc gia. Tuy nhiên, việc thừa nhận này lại gặp phải một vấn đề
khác. Hóa ra quốc gia miền Bắc đi xâm chiếm quốc gia khác, chứ không phải là sự
giải phóng như họ đã rêu rao suốt hơn 66 năm qua.
Cho dù quốc gia có tính kế
thừa, tiếp diễn, điều đó không có nghĩa người dân Việt Nam phải chấp nhận việc
chủ quyền do một nhóm người độc tài cai trị, biếu không cho quốc gia khác để
gia tăng lợi thế chính trị.
Không ngừng xâm
chiếm, quấy phá
Sau khi chiếm Hoàng Sa,
Trung Cộng không ngừng mở rộng việc đánh chiếm thêm các đảo ở Trường Sa. Xây dựng,
cơi nới thêm trên các đảo chiếm của Việt Nam để biến thành những tiền đồn vững
chắc. Cùng với đó, gia tăng việc quấy nhiễu lãnh hải Việt Nam, bắn giết ngư
dân. Từ đặt giàn khoan Hải Dương 801 vào năm 2014, đến tàu Hải Dương Địa Chất
liên tục quấy phá trong những năm gần đây.
Hơn 20 năm qua, chưa năm
nào không có ngư dân Việt bị các lực lượng hung hăng như hải cảnh, dân quân bán
vũ trang của Trung Cộng vây bắt, đâm chìm. Của mất. Người thương tích. Nhiều
xác người Việt vẫn vùi dưới biển sâu bởi sự tàn ác của Trung Cộng. Dân Việt bực
tức, nhà cầm quyền Việt Nam chẳng dám gọi thẳng tên kẻ ác, mà cứ “tàu lạ”, “nước
lạ”.
Ngày 18/4 vừa rồi, Trung
Cộng tuyên bố thành lập hai quận Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam), và Nam Sa
(tức thuộc Trường Sa của Việt Nam). Hai quận mới này thuộc thành phố Tam Sa đã
được thành lập vào tháng 7/2012.
Trước đó, Việt Nam đã hai lần gởi công hàm phản đối việc tự nhận chủ
quyền lãnh hải quá mức của Trung Cộng lên các cơ quan của Liên Hiệp Quốc. Lần
thứ nhất là Công hàm 257-HC, gửi vào năm 2016, lần thứ hai là Công hàm A/72/692,
gửi năm 2018. Và gần đây nhất vào cuối tháng ba vừa rồi.
Ngay sau đó Trung Cộng
cũng lu loa bằng nhiều cách, theo cách vừa ăn cướp vừa la làng, như trưng ‘bảo
bối’ Việt Nam từng tán đồng với chủ quyền lãnh hải của Trung Cộng tuyên bố vào
năm 1958.
Phải thừa nhận rằng,
trong mấy năm gần đây, Việt Nam là quốc gia cứng rắn nhất trong khu vực Đông
Nam Á, và cả châu Á đối đầu trước những đòi hỏi lãnh hải vô lý của Trung Cộng.
Nhưng như thế vẫn là chưa đủ. Nhà cầm quyền Việt Nam hãy để người dân lên tiếng
về chủ quyền chứ không thể cấm người dân lên tiếng, phản đối theo cách của họ để
làm đẹp lòng Trung Quốc.
Dân tộc Việt Nam quyết
không để đảng Cộng Sản đem dân tộc này trói vào Trung Cộng như trong hội nghị
Thành Đô vào năm 1990. Bởi khủng hoảng do virus Vũ Hán hiện nay trên thế giới
đang trao thêm cho quốc gia Việt Nam cơ hội để thoát khỏi Trung.
No comments:
Post a Comment