Mặc
Lý (dịch)
12/03/2020
(Bản dịch bài “The
Tragedy of Revolution: Lessons from the Past” đăng trên tạp chí The
American Interest, ngày 03/03/2020 của Daniel Chirot, hiện dạy tại
phân khoa Quốc Tế Học, đại học Washington.)
Một điểm
quan trọng cần nhớ: Những người ôn hòa ít khi hiểu được những tay cấp tiến cực
đoan nguy hiểm như thế nào.
Những cuộc cách mạng bạo động nhất của thế kỷ
20 thường khó ai lường được. Khi cách mạng nổ ra, kết quả khác xa với những gì
đa số người ủng hộ ban đầu mong đợi. Hầu hết mọi cuộc cách mang chính trị cận đại
lớn đều kết thúc bằng thảm kịch với vài trăm ngàn người chết và trong những trường
hợp cực đoan nhất, nhiều triệu người chết, những cái chết không cần thiết. Dù vậy,
nhiều người vẫn còn nghĩ rằng cách mạng là cần thiết, có tác động tích cực về
lâu về dài. Thế tại sao rất nhiều cuộc cách mạng đã trở thành thảm kịch như vậy?
Năm 1913, như Lenin viết trong một bức thư,
ông xem như không còn hy vọng gì về một cuôc cách mạng xảy ra ở Nga, trừ trường
hợp Nga Hoàng và Hoàng Đế của Đế Quốc Áo Hung ngu ngốc gây chiến với nhau, mà
Lenin không nghĩ điều này sẽ xảy ra. Nay nhìn lại cuôc cách mạng Nga 1917, ta
thấy có nhiều động lực thúc đẩy cách mạng nổ ra đã có lúc đó. Tuy nhiên phe chủ
xướng ôn hòa đã phạm nhiều lỗi lầm, phán đoán sai và cả ngây thơ về chính trị
lúc mới cầm quyền vào tháng 02/1917, khiến Lenin thành công và lật đổ họ tám
tháng sau, đưa đến cuôc nội chiến và khủng bố đẫm máu trong nhiều năm sau.
Ở Iran, trong các cuôc phỏng vấn khá cởi mở
giữa thập niên 1970s, Quốc vương Iran, rất tự tin bảo rằng ông ta sắp làm cho
Iran trở thành 1 trong 5 đại cường quốc trên thế giới và nhân dân Iran đang yêu
mến ông như yêu một cha gìà nhân ái. Thế mà đến 1979, sau một năm với những cuộc
biểu tình bạo động, ông bị lật đổ và Iran đi vào con đường chuyên chế giáo quyền
tàn bạo.
Hai trường hợp trên cũng không phải cá biệt.
Năm 1931, Pháp tổ chức một cuộc đấu xảo, triển lãm hình ảnh đế quốc thuộc địa của
mình, hoành tráng, tốn kém, thu hút đông đảo người tham dự, quảng bá cho sứ mạng
khai hóa văn minh và lợi ích mà nước Pháp mang lại cho các thần dân tại các thuộc
địa ở Phi Châu, Á Châu và Cận Đông. Ít có người nào tham dự cuôc đấu xảo này lại
đoán được rằng chỉ trong vòng 3 thập niên sau đó, cuối cùng cả đế quốc Pháp
cũng sụp đổ sau hai cuộc chiến tranh cách mạng phản thực, thiệt hại tiền của và
máu xương ghê gớm tại Đông Dương và Algeria, chỉ vì người Pháp nhất quyết từ chối
không chịu nhượng bộ những đòi hỏi ôn hòa, đòi được mở rộng quyền tự trị.
Ở Mexico, năm 1908, rất ít người ngoại quốc đầu
tư vào nền kinh tế đang phát triển ở đó lại thấy được chế độ đôc tài của
Porfirio Diaz có thể sụp đổ. Và lại càng ít người tiên đoán được sau cuộc cách
mạng dân chủ ôn hòa năm 1911, Mexico lại đi vào những bạo động cực kỳ đẫm máu
thập niên sau đó.
Ở Trung Hoa, đến 1910 nhiều người cũng thấy
vương triều nhà Thanh sẽ sụp đổ, nhưng lúc đó không có đảng Cộng Sản và dù có,
không ai tiên đoán được đảng Cộng Sản sẽ nắm quyền năm 1949. Ngay trước khi Nhật
Bản xâm lăng Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch năm 1937, ai cũng nghĩ đảng
Cộng Sản Trung Quốc sẽ bị tận diệt tới nơi.
Một thí dụ khác là cuộc cách mạng ở Đức trong
thập niên 1930s, tuy ít người xem đó là cuộc cách mạng. Khi những người bảo thủ
Đức đưa Hitler lên nắm quyền năm 1933, họ tin chắc là họ có thể kiểm soát được
tay cực đoan bốc đồng người Áo này. Tài hùng biện của Hitler sẽ diệt tả phái, họ
nghĩ thế và rồi các định chế hữu phái sẽ truất quyền Hitler. Lịch sử có xảy ra
thế đâu?
Những cuộc cách mạng đầu tiên của lịch sử cận
đại, ở Mỹ 1775 và Pháp 1789 có thể chuyển hướng được, dù rằng các tư tưởng tự
do, giải phóng vẫn cần thiết trong nhiều giai đoạn lịch sử. Điều này đặc biệt
đúng trong cuộc Cách Mạng Pháp 1789, vì lúc đó nước Pháp đủ giàu để giải quyết
vấn đề khó khăn tài chính và có đủ hàng ngũ giáo sĩ, trí thức và quan chức để
tiến hành cải cách. Tuy nhiên sự cứng đầu, nhất định không chịu thay đổi của
hoàng gia và giới quý tộc, khiêu khích phe chống đối đòi hỏi thay đổi vô tận, hết
cái này đến cái khác, thay vì giới cầm quyền chấp nhận những đòi hỏi thay đổi
ngay ban đầu. Ở Pháp cũng như trong rất nhiều cuộc cách mạng khác trên thế giới
trong thế kỷ 20, làn sóng những người cách mạng đầu tiên, cấp tiên ôn hòa, bị
những tay cách mạng cực đoan tiêu diệt, đưa nước Pháp vào thời kỳ nội chiến và
khủng bố. Cuối cùng chế độ độc tài quân sự của Napoleon với những cuộc chiến
tranh liên miên với các nước láng giềng làm khánh tận nước Pháp.
Ta
có thể học hỏi được gì từ những cuộc cách mạng này và vô số trường hợp tương tự?
Thứ
nhất, trong một cuộc cách mạng, thường ta không
biết ngay được những gì sẽ xảy ra. Một khi bạo động đã bùng nổ, các
biến cố sẽ nhanh chóng rơi ngoài tầm kiểm soát của những người khởi xướng, lúc
mà lực lượng chống cách mạng phản công và những tay cực đoan nhất trong hàng
ngũ cách mạng lên nắm quyền. Sự can thiệp của nước ngoài lại làm điều này dễ xảy
ra hơn. Trong tất cả những cuộc cách mạng lớn trên thế giới thời cận hiện đại,
cách mạng Mỹ 1775 đứng riêng như một biệt lệ vì giới tinh hoa cầm đầu cách mạng
luôn luôn kiểm soát được tiến trình và họ giới hạn mục tiêu cách mạng trên
phương diện chính trị hơn là thay đổi về mặt xã hội và kinh tế.
(Cũng phải nói cho rõ là điều này cũng có cái giá riêng của nó: vấn đề nô lệ
còn để nguyên không đụng tới và nó ám ảnh nước Mỹ từ đó cho tận ngày nay.)
Thứ
hai, những nhà cải cách ôn hòa thường không hiểu
những tay quá khích cực đoan nguy hiểm như thế nào. Trong cách mạng Pháp 1789,
những lãnh tụ như Lafayette hay Condorcet, không hiểu rằng chính họ là mục tiêu
của những quý tộc phản cách mạng phía hữu cũng như những tay cách mạng cực đoan
phía tả, đến khi hiểu ra thì đã quá trễ. Lafayette phải đi lưu vong còn
Condorcet thì bị ám sát dù ông này luôn ủng hộ cho cuộc cách mạng. Số phận của
Kerensky cả những tay ôn hòa ở Nga cũng vậy, cũng như của một loạt những người
ôn hòa ở Mexico. Shapour Bakhtiar, một người ôn hòa chống đối hoàng triều độc
tài của Iran, bị Quốc Vương Iran bỏ tù nhiều lần, cuối cùng được đưa lên nắm
quyền năm 1978, nhưng lúc đó đã quá trễ để cứu vãn tình thế. Trong thơi gian
chuyển tiếp, chính phủ do ông cầm quyền có những cải cách dân chủ nhưng cuối
cùng ông bắt buộc phải lưu vong sang Pháp khi giáo chủ Khomeini lên cầm quyền
và sau đó bị các nhân viên mật vụ Iran gửi sang ám sát.
Những người bảo thủ tương đối ôn hòa, chống đối
cách mạng cũng không thấy được điều này. Họ sẵn sàng tìm đồng minh bằng cách thỏa
hiệp với phe cực hữu hơn là những người tương đối ôn hòa của phe tả. Những kiểu
liên hiệp như vậy đã đưa Mussolini ở Ý năm 1921 và Hitler ở Đức năm 1933 lên cầm quyền.
Nhà sử học lừng danh Crane Brinton cũng đúc kết
lại là sau mỗi cuộc cách mạng đều có một “cuộc phản cách mạng Thermidorian”.
Thermidor là tháng 11 của lịch cách mạng Pháp, tháng mà lãnh tụ tàn bạo
Robespierre của thời kỳ Đại Khủng Bố bị lật đổ và đưa lên đoạn đầu đài năm
1794, mở đầu cho một giai đoạn ôn hòa. Nhìn lại những cuộc cách mạng của thế kỷ
20, ta thấy “cuộc phản cách mạng Thermidor” đều có xảy ra đấy nhưng phải chờ thời
gian lâu hơn là trong cách mạng Pháp, khi phe cách mạng cực đoan chỉ cầm quyền
vỏn vẹn 2 năm. Ở Nga chỉ sau khi Stalin chết năm 1953, và nhất là trong thập
niên 1970s và 1980s, cuộc cách mạng mới bỏ đi những lý tưởng cấp tiến cực đoan.
Điều này (cuộc phản cách mạng Thermidorian) cũng tương tự như những gì xảy ra
thời Đặng tiểu Bình ở Trung Quốc, nhưng không hoàn toàn và vẫn kéo dài đến nay.
Ở Iran cuộc đấu tranh giữa phe cực đoan và trung dung ôn hoà vẫn tiếp tục cho tận
bây giờ.
Thứ
ba, một bài học tổng quát từ những cuộc cách mạng
thời cận hiện đại là cuối cùng, những người cách mạng cầm quyền nói chung sẽ bị
hủ hóa, Sau khi những tay cách mạng cực đoan thành lập chính quyền độc tài, guồng
mảy cũ vạch ra và kiểm soát, chế tài tham những không còn nữa và không có guồng
máy mới thay thế trong chính quyền độc tài. Đây là điều đã xảy ra cho đại đa số
các cuộc cách mang phản thực của thế giới thứ ba như ở Angola, Algeria, Syria
(đảng Baath) và Iraq (trước khi bị người Mỹ lật đổ). Nó cũng là điều đã xảy ra
trong các nước Cộng Sản Đông Âu trước thập niên 1980s và cũng là điều Tập Cận
Bình lo ngại. Đây là kết cục đáng buồn của những cuôc cách mạng cực đoan muốn
thay đổi tận gốc rễ: theo sau những cuộc cách mạng thất bại như vậy là chế độ
chuyên chính “ăn cắp”, tiêu biểu nhất là chế độ của Vladimir Putin ngày nay.
Kết
luận thứ tư và cuối cùng: cải cách có thể xảy ra được mà không
cần tới cách mạng, quí hồ giới chính trị gia tinh hoa hiểu được nhu cầu thay đổi
từng bước một và chịu thỏa hiệp. Trong nhiều trường hợp, sự đàn áp những tiếng
nói ôn hòa đòi thay đổi có thể kéo dài đấy, nhưng cuối cùng một vài biến cố đột
ngột – chiến tranh, nạn dịch, khủng hoảng kinh tế, … cộng thêm với phản ừng quá
đà của lực lượng đàn áp, sự ích kỷ dung tục của giới tinh hoa cầm quyền, tất cả
sẽ châm ngòi cho những phản ứng cực đoan hơn. Từ đó cách mạng dễ dàng đi đến bước
cực đoan hủy diệt. Chỉ sau nhiều năm rơi vào thảm kịch, người ta mới hiểu rằng
cách mạng như vậy là vô ích và những giải pháp khôn ngoan hơn, tốt hơn vẫn có
đó nhưng không được thi hành.
Câu hỏi là còn bao nhiêu người ở phe tả lẫn
phe hữu còn chưa hiểu những bài học này vẫn thích hợp cho thời đại ngày nay?
Mặc
Lý (dịch)
(09/03/2020)
-----------------------
Nguồn:
Published on: March 3, 2020
No comments:
Post a Comment