Trịnh Hữu Long - Luật
Khoa
22/03/2020
Việc gọi tên virus và dịch bệnh là gì cũng lắm nhiêu
khê và gây chia rẽ. Nên gọi tên tác nhân gây bệnh là “virus Vũ Hán”, “virus
Trung Quốc” hay “SARS-CoV-2”? Nên gọi tên dịch bệnh là “cúm Tàu” hay
“COVID-19”?
Phe
ủng hộ gọi tên “virus Vũ Hán”, “virus Trung Quốc” và “cúm Tàu” có ba lập luận:
·
Thế giới đã có thông lệ gọi tên virus và dịch bệnh
theo nơi khởi phát, chẳng hạn cúm Tây Ban Nha, viêm não Nhật Bản, Ebola.
·
Việc gọi tên theo nơi khởi phát không có hàm ý phân
biệt đối xử, mà chỉ đơn giản là gọi đúng sự thật.
·
Gọi tên theo nơi khởi phát là cần thiết vì Trung Quốc
đang cố gắng phủi trách nhiệm trong việc để dịch bệnh lây lan, cũng như đổ thừa
cho Mỹ đem virus này vào Trung Quốc.
Phe
phản đối gọi tên “virus Vũ Hán”, “virus Trung Quốc” và “cúm Tàu” thì chỉ
có một lập luận duy nhất: phân biệt chủng tộc. Theo đó, có hai hậu quả sau:
·
Gắn tên virus và dịch bệnh với một vùng địa lý sẽ
khiến người dân vùng đó bị phân biệt đối xử. Cụ thể, người Trung Quốc sẽ bị kỳ
thị.
·
Người gốc Trung Quốc nói riêng và gốc Đông Á nói
chung (có nhân dạng giống người Trung Quốc) tại các nước khác sẽ bị phân biệt đối
xử. Chẳng hạn: không chỉ người gốc Hoa mà người gốc Việt, Đài, Hàn, Nhật ở Mỹ
cũng bị kỳ thị. Du học sinh hay lao động từ các nước này mà đang sống ở Mỹ cũng
vậy.
Cả hai phe đều có những lập luận rất vững chắc để bảo
vệ quan điểm của mình. Từ góc quan sát của tôi, phe thứ nhất thường là người Việt Nam trong nước, phe thứ
hai thường là người Việt Nam ở nước ngoài. Và đến đây, chúng ta có một vấn
đề phải đặt ra: liệu chúng ta có đang cùng nói về một thứ?
Bối cảnh ở Mỹ
Khi phe thứ hai phản đối gắn tên virus và dịch bệnh
với Trung Quốc, thứ họ quan tâm là nạn phân biệt chủng tộc, vốn là một thứ “dịch
bệnh văn hóa” thâm căn cố đế ở phương Tây, nhất là Mỹ, nơi họ sinh sống.
Là một cộng đồng thiểu số và đến sau, người Á Đông sống
ở Mỹ từ lâu đã bị kỳ thị. Không chỉ riêng người Trung Quốc, mà người Việt Nam,
Hàn Quốc, Nhật Bản đều là nạn nhân của nạn phân biệt đối xử nặng nề. Và không
chỉ người Mỹ da trắng kỳ thị họ, mà người Mỹ da đen cũng kỳ thị họ. (Dĩ nhiên
tôi không nói tất cả, không có gì trên đời là tuyệt đối.)
Và một nét văn hóa chính trị ở Mỹ mà tôi nghĩ là phần
lớn người Việt Nam trong nước không biết, đó là bất kể quốc tịch, nguồn gốc của
một người là gì, hễ là người tóc đen da vàng thì đều bị/được người Mỹ da trắng,
da đen gộp chung vào một nhóm: Trung Quốc. Nếu người Trung Quốc bị kỳ thị, tất
cả người Á Đông ở Mỹ đều bị kỳ thị theo.
Giờ đây, khi một dịch bệnh được gắn với Trung Quốc,
dĩ nhiên không chỉ người Trung Quốc mà người Á Đông ở Mỹ đều đứng trước nguy cơ
bị xa lánh, chửi bới, tấn công. Đó là lý do tại sao một bộ phận người dân và
báo chí Mỹ phản ứng dữ dội đến vậy với việc Tổng thống Donald Trump gọi
SARS-CoV-2 là “Chinese virus” (virus Trung Quốc). Ngay cả đài FoxNews,
vốn rất thân với Tổng thống Trump, cũng dùng tên “coronavirus” và “COVID-19” chứ
không phải “Chinese virus” hay “Wuhan virus” trong các bản tin của mình, mặc dù
các bình luận gia của đài này không phản đối cách gọi của ông Trump. Trên thực
tế, hàng
loạt các vụ tấn công người gốc Á Đông đã diễn ra trong thời gian qua,
hiện tượng kỳ thị người Á Đông cũng tăng mạnh.
Phe thứ nhất, vốn hầu hết là người Việt Nam trong nước,
không biết hoặc không hiểu rõ bối cảnh chính trị này của Mỹ và dường như không
cảm thông với lý do mà người Việt Nam ở Mỹ phản đối cách gọi “cúm Tàu”, “virus
Vũ Hán”. Bởi đơn giản, người trong nước không phải chịu rủi ro bị kỳ thị như
người ở Mỹ. Khi mối đe dọa ở ngay trước mắt bạn thì bạn mới sợ.
Bên cạnh đó, nước Mỹ cũng đã trải qua những bài học
đau đớn về kỳ thị một cộng đồng nào đó. Nhờ tự do ngôn luận mà những bài học đó
được mổ xẻ và giúp người dân thay đổi nhận thức (điều này rất khác với Việt
Nam).
Chẳng hạn, khi dịch
HIV-AIDS mới bắt đầu bùng phát năm 1981 ở California, người Mỹ chưa gọi
nó là AIDS (Hội chứng suy giảm miễn dịch), mà gọi là “gay cancer” (ung thư
gay), hay “Gay-Related Immune Deficiency” (hội chứng suy giảm miễn dịch liên
quan đến gay). Lý do là những ca bệnh đầu tiên được phát hiện là từ cộng đồng
gay. Cộng đồng này, vốn đã chịu cái nhìn kỳ thị của xã hội còn nhiều định kiến
cực kỳ nặng nề khi đó, lại chịu thêm một định kiến tày trời nữa: họ là nguồn
lây nhiễm một căn bệnh chết người, vô phương cứu chữa. Khỏi cần nói họ đã sống
khó khăn như thế nào cho đến khi những định kiến đó dần dần được gỡ bỏ.
Phe thứ nhất, theo quan sát của tôi, dường như không
thừa nhận hoặc không coi trọng những hậu quả trực tiếp lẫn gián tiếp của việc
gán Trung Quốc cho tên virus và dịch bệnh này gây ra cho những đồng bào mình ở
Mỹ, người Hoa ở Việt Nam, và rộng hơn là cho người Á Đông thiểu số sinh sống rải
rác khắp thế giới.
Bối cảnh ở Việt Nam
Tuy vậy, ở chiều ngược lại, nhóm thứ hai cũng không
thừa nhận đúng mức các lập luận của nhóm thứ nhất.
Thực tế là những ai gọi tên “virus Vũ Hán” hay “cúm
Tàu” dường như không có ý kỳ thị người Trung Quốc thật, lại càng không có ý kỳ
thị người Hoa ở Việt Nam. Điều này cũng giống như không ai kỳ thị người Nhật vì
dịch “viêm não Nhật Bản”.
Và nếu có kỳ thị, người ta sẽ kỳ thị người bệnh, hoặc
người có khả năng mang bệnh, chứ không kỳ thị riêng người Trung Quốc. Điều dễ
thấy là thời gian qua, người Việt Nam chủ động xa lánh tất cả những ai có khả
năng lây bệnh: người Trung Quốc, người Hàn, người Nhật, người châu Âu, thậm chí
người Vĩnh Phúc, Việt kiều về nước, v.v.
Bên cạnh đó, xét từ khía cạnh người dân, ở Việt Nam
dường như cũng không có hiện tượng kỳ thị người Hoa và gán người Hoa với Trung
Quốc. Hoặc ít nhất là khi người ta nói “virus Vũ Hán” hay “cúm Tàu”, họ không
có ý nhắm đến cộng đồng người Hoa ở bất kỳ đâu. Còn việc Đảng Cộng sản Việt Nam
gây khó dễ, thậm chí từng đàn áp người Hoa thì lại là chuyện khác.
Cái tên virus hay tên bệnh không làm cho người Việt
Nam trong nước kỳ thị người Hoa hơn (nếu có kỳ thị), cũng không làm thay đổi thực
tế là người kỳ thị thì kỳ thị bất kỳ ai có khả năng lây bệnh, chứ không riêng
gì người Trung Quốc.
Một vấn đề nữa là nhóm thứ nhất nhắm đến chính quyền
Trung Quốc chứ không phải người dân Trung Quốc. Thực tế cho thấy dư luận Việt
Nam đã cảm thương và căm phẫn trước cái
chết của bác sĩ Lý Văn Lượng như thế nào, và đồng cảm với nỗi đau của
người Trung Quốc ra sao.
Bên cạnh đó, nhóm thứ nhất cũng có một lý do hết sức
chính đáng để gắn Trung Quốc với dịch bệnh này, đó là ngăn
chặn khả năng chính quyền Trung Quốc đổi trắng thay đen, phủ nhận trách nhiệm
của mình với thế giới và với ngay cả chính công dân của họ. Dù đồng ý với nhóm
này không, ta cũng rất nên thừa nhận lý do này có tính hợp lý của nó.
Vì những lý do trên, mang yếu tố “phân biệt chủng tộc”
ra để phản bác người Việt Nam trong nước thì quả thực chưa cân nhắc đầy đủ đến
các yếu tố văn hóa chính trị trong nước.
***
Như thế, chúng ta thấy rằng, dù quan điểm đối nghịch
nhau, cả hai phe đều có một điểm chung: không đặt mình vào không gian văn hóa
chính trị của phe đối lập để hiểu và cảm thông.
Với hai không gian khác nhau (Mỹ và Việt Nam), những
lập luận sẽ có giá trị khác nhau. Hay nói cách khác, hai phe đang không cùng
nói về một thứ.
Theo quan sát của tôi, thứ mà người Việt Nam ở Mỹ
nói đến là “chủ nghĩa phân biệt chủng tộc” (racism), còn thứ mà người Việt Nam
trong nước nói đến là “chủ nghĩa quốc gia/dân tộc” (nationalism). Người ở Mỹ
đang lo ngại vấn đề kỳ thị người châu Á, còn người ở Việt Nam lo ngại mối đe dọa
của chính quyền Trung Quốc.
Cái thứ gọi là “phân biệt chủng tộc” mà người Việt
Nam ở Mỹ nói không phải là khái niệm “phân biệt chủng tộc” mà người Việt Nam
trong nước hiểu. Cái rủi ro mà người Việt Nam ở Mỹ chịu cũng không phải là cái
rủi ro mà người Việt Nam trong nước phải chịu.
Với hai bối cảnh khác nhau sâu sắc đến thế, muốn có
một cuộc tranh luận lành mạnh và ý nghĩa, việc đầu tiên ta cần làm là thông hiểu
cho lý do tại sao mỗi phe lại lựa chọn quan điểm như vậy. Khăng khăng rằng chỉ
có mình mới đúng, theo tôi, là một cách tiếp cận không phù hợp.
Sau cùng, không có lập luận nào có thể thỏa mãn được
mọi người, hay có thể hợp lý với mọi không gian văn hóa chính trị. Thứ sau cùng
ta phải lựa chọn là giữa những giải pháp không trọn vẹn, ta ưu tiên cái gì.
Mục đích của phe thứ nhất là quy trách nhiệm làm
bùng phát dịch COVID-19 cho Trung Quốc, còn phương tiện của họ là gắn bằng được
Trung Quốc với tên virus, tên dịch bệnh. Phương tiện này, vô hình trung, lại đẩy
người Á Đông ở Mỹ và phương Tây, và rất có thể là cả người Hoa ở Việt Nam, vào
thế bị kỳ thị sâu sắc hơn.
Bạn lựa chọn gì trong tình thế đó?
Tôi cũng có lựa chọn của riêng mình, nhưng ở bài viết
này, xin dừng ở đây.
----------------------
Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài
bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại
đây.
No comments:
Post a Comment