Một số người so sánh tác động của COVID-19 với SARS
năm 2003. Tuy nhiên, Việc so sánh này là vô cùng khập khiễng vì sức tàn phá và
hệ lụy của COVID-19 ở các quốc gia chịu tác động cũng như đối với nền kinh tế
thế giới là đặc biệt nghiêm trọng, đến mức không một đại dịch cận đại nào có thể
so sánh được.
Dịch COVID-19 bùng nổ đúng vào giai đoạn dễ bị tổn
thương của chu kỳ kinh tế toàn cầu: Tăng trưởng toàn cầu năm 2019 chỉ ở mức
2,9% – thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng 2008-2009. Kết quả hoạt động của hầu hết
các nền kinh kế quan trọng cuối năm 2019 vừa thấp vừa bất định: trong quý
4-2019, tăng trưởng của Mỹ chỉ đạt 2,1%, của Trung Quốc chỉ là 6% (thấp nhất
trong 27 năm qua), còn của Nhật giảm 6,3%; trong tháng 12/2019, sản lượng công
nghiệp của Đức và Pháp đều tăng trưởng âm, lần lượt là -3,5% và -2,6%.
Kinh tế của Trung Quốc trong quý I-2020 gần như đình
trệ: Trong tháng 2, tiêu thụ than (chiếm khoảng 60% tiêu dùng năng lượng của
TQ) giảm 38% so với cùng kỳ 2019. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng
2/2020 rơi tự do từ 50 xuống 35,7. Việc phong tỏa nhiều thành phố đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hoạt động vận chuyển, khiến cho nguyên vật liệu sản xuất bị
ách tắc, nhiều công nhân TQ không thể trở về nơi làm việc sau Tết, khiến cho
các chuỗi cung ứng bị gián đoạn nghiêm trọng.
Tính dễ bị tổn thương của nền kinh tế toàn cầu không
chỉ thể hiện ở các chỉ số tăng trưởng, mà quan trọng hơn, nằm ở những vấn đề có
tính cơ cấu của các nền kinh tế lớn. Mỹ, Nhật, Anh và nhiều nước G20 đang thâm
hụt ngân sách nặng nề và nợ công đã ở mức rất cao. Đồng thời, lãi suất ở các nền
kinh tế quan trọng nhất trong G20 đều đang rất thấp, thậm chí bằng 0 ở nhiều nước
EU và âm ở Nhật Bản. Hệ quả là chính phủ có rất ít dư địa để can thiệp về tài
khóa và tiền tệ nhằm kích thích nền kinh tế khi đại dịch toàn cầu hoành hành.
Nếu như báo cáo mới nhất (1/2020) của IMF về triển vọng
kinh tế toàn cầu còn dự báo kinh tế thế giới sẽ bình ổn và phục hồi nhẹ trong
năm 2020 và 2021 thì bây giờ các nhà kinh tế bắt đầu nói đến hai chữ “suy
thoái”.
Để khắc phục nguy cơ suy thoái toàn cầu buộc phải có
những giải pháp toàn cầu. Nhưng đáng tiếc, thế giới lại đang xung đột và chia rẽ
sâu sắc, tình trạng mà một số nhà quan sát dự báo sẽ trở thành “chiến tranh lạnh
mới” với sự mâu thuẫn về lợi
ích chiến lược cốt lõi giữa Mỹ với Trung Quốc và Nga. Ở châu Âu, nước
Anh đã ra khỏi EU và làm trầm trọng thêm sự chia rẽ của khối này. Ngay trong phạm
vi từng nước, bất đồng giữa các đảng phái cũng đang gây ra sự chia rẽ sâu sắc ở
Mỹ, Anh, Pháp và nhiều nước khác. Gần đây nhất, cuộc chiến giá dầu giữa Nga và
Saudi Arabia và nguy cơ leo thang xung đột quân sự ở Syria tiếp tục đổ thêm dầu
vào lửa, khiến thiện chí và nỗ lực phối hợp toàn cầu để chống đại dịch cũng những
hậu quả kinh tế của nó trở nên xa vời.
Nhìn
cận cảnh hơn, tác động khác biệt “một trời, một vực” đối với kinh tế toàn cầu của
SARS và COVID-19 xuất phát từ các nguyên nhân chính sau:
Thứ
nhất, so với COVID-19, phạm vi lây nhiễm của SARS tương đối
hẹp (26 nước), rất tập trung (92% ở Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan), số lượng
tử vong tổng cộng là 774 – chưa tới 12% số lượng tử vong do COVID-19 gây ra cho
đến ngày 16/3/2020. Hơn nữa, dịch SARS kết thúc trong vòng 2 quý, nhờ vậy kinh
tế toàn cầu đã hồi phục nhanh chóng theo hình chữ V. Trái lại, COVID-19 xảy ra
cho đến nay đã gần một quý, tâm điểm lan truyền di động (đợt 1 là TQ, đợt 2 là
Hàn Quốc và Nhật Bản, đợt 3 là Ý, châu Âu và Mỹ v.v.), hết đợt này đến đợt khác
nên kinh tế toàn cầu liên tục ở trạng thái “đóng cửa” từng phần và hết sức bấp
bênh.
Thứ
hai, khi SARS nổ ra và tập trung chủ yếu ở Trung Quốc, Hồng
Kông và Đài Loan, các nền kinh tế này – đặc biệt là Trung Quốc – chưa quá quan
trọng với kinh tế toàn cầu. Khi ấy kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc mới đứng
thứ 5 thế giới (sau Mỹ, Đức, Nhật, Pháp) và chỉ chiếm 5% trong tổng xuất khẩu
toàn cầu. Ngày nay, Trung Quốc đã trở thành nước xuất khẩu lớn nhất, chiếm tới
13% xuất khẩu toàn cầu. Không những thế, các GVCs hiện chiếm khoảng 75% tăng
trưởng thương mại toàn cầu, trong đó Trung Quốc đóng vai trò quan trọng nhất.
Vì vậy, dịch COVID-19 ở Trung Quốc đã và sẽ tiếp tục gây ra cú sốc to lớn cho tổng
cung và sự gián đoạn nghiêm trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tương tự như
thế về phía cầu – TQ hiện là nước nhập khẩu quan trọng nhất đối với hầu hết các
nền kinh tế ở châu Á và là nhà nhập khẩu lớn thứ 3 của Hoa Kỳ. Khách du lịch
Trung Quốc trong năm 2018 tiêu 277 tỷ đô-la cho du lịch nước ngoài. Tóm lại,
Trung Quốc đang tạo ra một lượng cầu bên ngoài to lớn cho rất nhiều nền kinh tế.
Thứ
ba, khác với SARS và các đại dịch toàn cầu gần đây, lần
này COVID-19 phát tán mạnh nhất ở các nền kinh tế lớn nhất. Bảng 1 cho thấy 10
nền kinh tế lớn nhất cùng nhau tạo ra 66% GDP, 69% sản lượng công nghiệp chế biến
– chế tạo (CB-CT), 46% xuất khẩu, và 56% xuất khẩu CB-CT toàn cầu. Và cũng 10
quốc gia này cùng nhau chiếm tới 71% số ca nhiễm và 79% số ca tử vong do COVID-19.
Rõ ràng là với tầm quan trọng của mình, khi các quốc gia này viêm phổi, cả thế
giới sẽ lao đao.
Câu hỏi lớn đặt ra là liệu COVID-19 có gây ra suy
thoái kinh tế toàn cầu trong năm 2020 hay không?
Hình cuối trang : https://www.facebook.com/photo.php?fbid=3779525725451730&set=a.760798333991166&type=3&theater
Bảng 1 : Tốp 10 nền kinh tế lớn nhất & tình trạng
dịch COVID-19 (cập nhật 23h, 16/03/2020)
No comments:
Post a Comment