Nguyễn Quốc Tấn Trung - Luật Khoa
08/11/2019
Câu
nói ‘Không ai bỏ ra 1 tỷ để người ta buôn mình cả’ của tướng
Nguyễn Hữu Cầu, Giám đốc Công an Nghệ An, tạo nên những tranh cãi nhất định
trong dư luận nước ta.
Bà Hoàng Thị Ái (Diễn Châu, Nghệ An) và bức hình con
bà, Hoàng Văn Tiệp. Bà sợ rằng con bà nằm trong số 39 người chết trong xe
container ở Anh. Ảnh: ATHIT PERAWONGMETHA/REUTERS.
Về mặt bối cảnh, ông này đang giải thích lý do vì
sao Công an tỉnh Nghệ An đã lập chuyên án, xâu chuỗi các thông tin để có thể khởi
tố vụ án, bắt giữ các đối tượng liên quan việc tổ chức đưa người đi nước ngoài
trái phép.
Đối với vụ việc, ông nhận định rằng người ở Việt Nam
là môi giới, người bên Anh mới trực tiếp tổ chức cho người ở lại trái phép. Chắc
chắn sẽ còn phát sinh các đối tượng khác. Quá trình điều tra sẽ được mở rộng, đối
tượng liên quan ở Việt Nam và đối tượng Việt Nam ở Anh cũng phải bị xử lý nếu cấu
thành tội tổ chức cho người ở lại nước ngoài trái phép. Theo ông, đây không phải
là buôn người, vì họ đi ra nước ngoài làm ăn và có nộp tiền.
Chỉ cần nhìn xuống phần bình luận bên dưới của trang
tin tức Zing, chúng ta có thể thấy sự ủng hộ dành cho lập luận của ông là không
nhỏ.
Một bạn đọc cho rằng những người bỏ đi đã tự chọn
con đường phi pháp này và phải tự chịu trách nhiệm trước lựa chọn của mình. “Họ bỏ ra một số tiền lớn để chấp nhận đi
chui nguy hiểm thì họ đã có sự tính toán của họ nên không thể gọi là buôn người,
có nhiều người đi trót lọt rồi về xây nhà lầu mua xe hơi rồi truyền tai nhau cứ
thế lại tiếp tục đi vì mục đích làm giàu nhanh, bây giờ xảy ra vụ 39 người chết
ngoài ý muốn nên mới bị phanh phui ra thôi, con đường là do họ chọn nên không
thể trách ai được”.
Tuy nhiên, cũng có nhiều người cho rằng nhận định của
tướng Cầu là thiếu trách nhiệm, thiếu hiểu biết về pháp luật quốc tế và là
nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của chính quyền địa phương và chính phủ Việt Nam
trong tuyên truyền và bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam tại nước
ngoài.
Người viết cho rằng xác định và phân biệt hành vi
buôn người, vận chuyển lậu người xuyên biên giới trái phép cũng như mối liên hệ
giữa chúng với nhau là rất cần thiết.
Vì sao không sai?
Trước tiên, cần khẳng định rằng tướng Cầu không nói
hoàn toàn sai về dấu hiệu và định nghĩa khác biệt giữa hành vi buôn người và
hành vi vận chuyển lậu người, tổ chức vượt biên giới trái phép.
Pháp luật quốc tế phân biệt rất rõ giữa buôn người
(human trafficking) và vận chuyển lậu người, hay tổ chức đưa người đi xuyên
biên giới trái phép (human smuggling). Cả hai có cấu thành tội phạm khác nhau,
dấu hiệu nhận biết khác nhau và mức độ nguy hiểm của hành vi khác nhau; và quan
trọng nhất là hệ quả pháp lý dành cho nạn nhân của hành vi buôn người / và người
tham gia vào đường dây buôn lậu người hoàn toàn trái ngược.
Theo quy định của Nghị
định thư Liên Hiệp Quốc về phòng chống vận chuyển lậu người nhập cư bằng
đường bộ, đường hàng hải và đường hàng không:
“[Vận chuyển lậu] là hành vi cung cấp dịch vụ nhằm,
trực tiếp hay gián tiếp, thu lợi tài chính hoặc các lợi ích vật chất khác, để
đưa một cá nhân vào vùng lãnh thổ quốc gia mà họ không có quốc tịch hoặc không
phải là cư dân thường trú.”
Ngược lại, buôn người là tổng hợp của các hành
vi “tuyển nạp, vận chuyển, chuyển giao và tiếp nhận con người bằng các
biện pháp vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực hoặc các hành vi cưỡng ép khác như
bắt cóc, lừa dối, dụ dỗ, lạm dụng quyền lực, tình trạng dễ tổn thương của nạn
nhân; hoặc nhận / đưa các lợi ích tài chính từ, cho một người để nhận quyền kiểm
soát một cá nhân khác với mục tiêu bóc lột. Việc bóc lột, ở mức độ tối thiểu,
bao gồm các hành vi mại dâm và các hình thức vụ lợi tình dục khác, lao động cưỡng
bức, thực hành nô lệ hay các hình thức lệ thuộc khác tương tự như nô lệ, buôn
bán nội tạng…”. Định nghĩa này được ghi nhận trong Nghị
định thư Liên Hiệp Quốc về Phòng chống, ngăn chặn và trừng phạt nạn
buôn người (còn được gọi là Nghị định thư Palermo), và cũng thường được dẫn chứng
như là định nghĩa có thẩm quyền nhất trong các nghiên cứu pháp lý liên quan đến
buôn người trong pháp luật quốc tế.
Bảng phân tích pháp lý sau cũng hy vọng có thể giúp
bạn đọc có cái nhìn chắc chắn hơn về hành vi vận chuyển lậu và buôn người:
Tiêu
chí
|
Buôn
người
|
Vận
chuyển lậu người
|
Bản chất tội phạm
|
Có khách thể của tội phạm là quyền con người của nạn
nhân cũng như trật tự công cộng của quốc gia. Có thể xuyên biên
giới hoặc không.
|
Khách thể của tội phạm là trật tự công cộng của quốc
gia tiếp nhận. Luôn mang bản chất xuyên biên giới.
|
Đặc trưng của những người tham gia vào đường dây
|
Nạn nhân
|
Khách hàng – Đồng phạm
|
Các yếu tố thúc đẩy
|
Nghèo đói, thất nghiệp, chiến tranh, bất ổn chính
trị, phân biệt đối xử chủng tộc …
|
Tương tự như Buôn người
|
Hành vi xâm nhập vào quốc gia tiếp nhận
|
Có thể hợp pháp hoặc phi pháp
|
Luôn luôn phi pháp
|
Mối quan hệ giữa bên cung cấp – vận chuyển và người
|
Mối quan hệ bóc lột; kẻ bóc lột và nạn nhân.
|
Mối quan hệ thương mại, đôi bên cùng có lợi.
|
Yếu tố vũ lực
|
Yếu tố vũ lực luôn hiện diện trong tiến trình buôn
người
|
Yếu tố vũ lực có thể xuất hiện ở một số trường hợp,
tình huống nhất định; nhưng không thể hiện diện thường trực trong suốt quá
trình vận chuyển trái phép.
|
Triết lý pháp lý về hai tội phạm này được áp dụng gần
như tương tự trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Tại Điều 150 và 151 Bộ luật Hình sự Việt Nam, tội
danh mua bán người và mua bán người dưới 16 tuổi bao
gồm các hành vi như “chuyển giao, tiếp nhận, tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp”
con người để giao, nhận tiền và các lợi ích vật chất khác; để bóc lột tình dục,
cưỡng bức lao động hoặc vì các lý do vô nhân đạo khác… đều thể hiện rõ cấu
thành của hành vi buôn người trong pháp luật quốc tế.
Hay tại điều Điều 349 liên quan đến tội tổ
chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái
phép, cấu thành liên quan đến việc tổ chức, môi giới và giúp đỡ người
Việt Nam đi và ở lại nước ngoài không đúng với các quy định xuất, nhập cảnh là
gần như tương đồng với cách hiểu liên quan đến hành vi vận chuyển lậu mà pháp
luật quốc tế quy định.
Với những phân tích trên, người viết cho rằng nhận định
của tướng Cầu không nên bị cho là thiếu hiểu biết về pháp luật quốc tế hay sai
lầm về pháp luật Việt Nam. Cho đến nay, ít nhất trong những trường hợp chúng ta
có thông tin, đường dây vận chuyển lậu này nhận tiền từ các gia đình mong muốn
đưa con em đi làm ở nước ngoài và thực hiện dịch vụ vận chuyển trái phép xuyên
qua nhiều biên giới. Những người tham gia không chỉ tự nguyện; mà yếu tố vũ lực
và cưỡng ép cũng chưa được chứng minh một cách rõ ràng. Trong đó, phía vận chuyển
cũng không có những thông tin móc nối cụ thể với phía nhận người tại Anh để thực
hiện hành vi bóc lột hay lợi dụng những người được vận chuyển. Có thể thấy việc
dự đoán tình huống của những người liên đến vụ việc 39 người Việt Nam tại Vương
quốc Anh nằm trong khung quy định của hành vi vận chuyển lậu người (hay tổ chức,
môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài…) là phù hợp với pháp luật quốc tế
cũng như pháp luật Việt Nam.
Nhưng vì sao vẫn chưa đúng?
Tuy nhiên, những phân tích ở trên chỉ nhằm xác định
và làm rõ sự khác biệt và tính hợp lý trong việc xác định tội phạm. Riêng phát
ngôn của ông Cầu cho rằng “không ai bỏ ra một tỷ để người ta buôn mình cả” vẫn
còn xem nhẹ liên hệ mật thiết và khả năng chuyển hóa tức thời giữa hai tội phạm.
Cụ thể hơn, cho dù người muốn mua dịch vụ vận chuyển
trái phép bỏ ra rất nhiều tiền để được đi qua đường biên giới của một quốc gia,
như trong trường hợp mà dư luận Việt Nam hiện nay đang bàn tới, họ luôn phải đối
mặt với khả năng bị chuyển hoá trở thành nạn nhân của hành vi buôn người bất kỳ
thời điểm nào, kể cả lúc họ đã được vận chuyển thành công đến quốc gia
đích.
Đặc trưng này tồn tại bởi vị thế pháp lý dễ bị tổn
thương của người được vận chuyển. Không có giấy tờ chứng minh quốc tịch của
mình để xin được bảo vệ tại đại sứ quán, không có danh nghĩa hợp pháp để làm việc
và sinh sống tại quốc gia tạm trú, những người bị vận chuyển luôn đứng trước
nguy cơ bị lợi dụng và bóc lột bất cứ lúc nào; mà vẫn không dám lên tiếng vì lo
sợ bị trục xuất.
Trong một báo
cáo ngay từ năm 2011, tổ chức phi chính phủ Global Alliance Against
Traffic in Women đã cảnh báo về tình trạng nói trên.
Họ ghi nhận trong các cuộc làm việc với những phụ nữ
từng phải chi trả để được vận chuyển trái phép sang nước ngoài như Thái Lan hoặc
có Thái Lan làm quốc gia trung chuyển, hơn phân nửa khẳng định họ đối mặt với sự
lạm dụng hay thậm chí là bóc lột tình dục như là một điều kiện để không bị báo
cáo với chính quyền hoặc được vận chuyển đi tiếp. Xem xét với các cấu thành mà
chúng ta đã phân tích ở trên, những phụ nữ đáng thương này thật sự đã “trả tiền
để bị buôn”.
Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa được đánh giá cao
trong các nỗ lực phòng chống buôn người – bảo vệ nạn nhân buôn người, và tiếp tục
bị xem là
một trong những trung tâm trung chuyển và một trong những quốc gia đóng góp nhiều
nạn nhân đối với vấn nạn buôn người toàn cầu.
***
Những phân tích trên một mặt vừa làm rõ các dấu hiệu
và đặc trưng pháp lý của hai loại tội phạm, song cũng nhằm chứng minh rủi ro
chuyển hóa tội phạm nhanh chóng giữa hai trường hợp. Trong bối cảnh nạn nhân của
tội buôn người sẽ được quốc gia tiếp nhận hỗ trợ, giúp đỡ trong quá trình sinh
sống; những người tham gia vào đường dây vận chuyển trái phép gần như không được
hưởng bất kỳ sự bảo vệ nào và ngay lập tức phải đối mặt với bị trục xuất
hoặc xét xử hình sự… dù có thể những gì họ phải trải qua và chịu đựng không
khác gì với nạn nhân của tội buôn người. Rõ ràng chính phủ và chính quyền địa
phương của Việt Nam cần cẩn trọng hơn để thấu hiểu và bảo vệ quyền lợi tốt nhất
của người Việt Nam tại nước ngoài.
No comments:
Post a Comment