Ý kiến của Thủ tướng Singapour Lý Hiển Long hồi đầu
tháng về thực tế lịch sử Việt Nam đã “can thiệp quân sự” vào Campuchia và đóng
quân tại xứ này 10 năm (1978-1988) vô tình phản chiếu lại những cái nhìn đối
nghịch giữa các bên (VN và các nước ASEAN) trong chiến tranh “ý thức hệ” (tức
chiến tranh lạnh) và về cuộc chiến Campuchia. Ý kiến của ông Lý gây “xáo động”
không chỉ trong giới ngoại giao, giới báo chí của VN mà còn gây “bão tố” trên
làng Facebook.
“Vấn đề” Campuchia và VN không hề đơn giản. Sự can
thiệp quân sự của VN vào Campuchia (và ở lại đây 10 năm) là hệ quả của những
mâu thuẫn sâu xa, bắt nguồn từ lịch sử (tranh chấp về lãnh thổ) hàng trăm năm,
cũng như sự đối lập về xây dựng CNXH trong nội bộ của hai phe cộng sản quốc tế,
bên thân Liên xô, bên thân TQ.
Sau đây là “cái nhìn” sơ lược của cá nhân tôi về “lịch
sử những tranh chấp giữa VN và Campuchia” viết từ 5 năm trước. Dĩ nhiên tôi
không hề muốn “viết lại lịch sử” mà chỉ muốn chia sẻ với bà con một cái nhìn
khác về lịch sử.
—–
Vấn đề Kampuchia: Tranh chấp lãnh thổ
Tranh chấp về lãnh thổ giữa hai bên VN và Kampuchia,
nếu xét trên phương diện những yêu sách khác nhau của người Khmer hiện nay về
lãnh thổ thì ta thấy các học giả Khmer nghiêng về lịch sử. Mà nói về lịch sử
thì có thể nói là tranh chấp hai bên đã xảy ra từ rất lâu. Dầu vậy ta có thể
chia ra làm năm thời kỳ. Mỗi thời kỳ bản chất của tranh chấp khác nhau, các lý
lẽ biện minh cho yêu sách của các bên khác nhau. Điều này xảy ra do ảnh hưởng địa
chính trị, hoàn cảnh lịch sử cũng như tinh thần dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ từ
các bên.
Thời kỳ đầu, từ đầu thế kỷ thứ 17 đến khi Nam kỳ trở
thành thuộc địa của Pháp 1862.
Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945, sau khi Đại
chiến thế giới kết thúc.
Thời kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1954, hiệp định
Genève được ký kết.
Thời kỳ thứ tư, từ 1954 đến 1975.
Thời kỳ thứ năm từ 1975 đến hôm nay.
Giữa hai bên có ba loại tranh chấp:
1/ về lãnh thổ trên đất liền, có hai khuynh hướng
tranh chấp, thứ nhứt là đất khu vực dọc theo biên giới, thứ hai, tranh chấp vùng
đất mà người Kampuchia gọi là Khmer Krom.
2/ về chủ quyền các đảo, quan trọng nhất là đảo Phú
Quốc và
3/ tranh chấp về ranh giới hải phận, về hiệu lực các
đảo trong vịnh Thái Lan.
Muốn biết nội tình các tranh chấp này ra sao, lý lẽ
mà các học giả Kampuchia vịn vào để đòi đất đai, lãnh thổ là như thế nào, cũng
như các lý lẽ này có hợp lý hay không? điều cần thiết là ta cần phải hiểu ngọn
nguồn, tức là vừa theo lịch sử của tranh chấp, vừa theo tinh thần của luật pháp
quốc tế.
1/ Thời kỳ thứ nhất, thuần túy lịch sử. Cũng cần nói
sơ qua vì các yêu sách của phía Khmer hiện nay nghiêng về lịch sử.
Bắt đầu sau khi VN bình định xong Chiêm Thành khoảng
đầu thế kỷ 17. Lãnh thổ VN được mở ra về phía nam cho đến Bình Thuận. Từ đó hai
dân tộc VN và Khmer trực tiếp đối đầu với nhau. Vào thời điểm này thì đế quốc
Khmer đã suy tàn.
Đế quốc Khmer là một đế quốc hùng mạnh, cao điểm là
thế kỷ thứ 11. Theo ý kiến các học giả phương Tây thì lãnh thổ đế quốc này trải
dài từ bắc Thái Lan, một phần Miến Điện, bao gồm thêm nam Lào cho đến miền Nam
VN hiện nay. Đế quốc này suy tàn bắt đầu từ thế kỷ 14. Các đế quốc Xiêm lần lượt
mang tên Sukhôthaï, Ayuthia và Bangkok, đã chinh phục hầu như 80% lãnh thổ đế
quốc Khmer. Đế quốc Khmer hùng mạnh ngày xưa đã bị đế quốc Thái tiêu diệt gần hết.
Dân chúng Khmer sót lại đã chạy đi tản mát, một số trở thành các bộ lạc nhỏ
trong rừng sâu, núi thẳm, số còn lại lui về lập đô ở Nam Vang. 2/3 diện tích nước
Thái Lan hiện nay vốn ngày xưa thuộc về đế quốc Khmer. Các di tích lịch sử, đền
đài của Khmer như Angkor Thom và Angkor Vat, hoàn toàn xóa bỏ trong ký ức của
dân Khmer, bị bỏ hoang phế. Chỉ đến giữa thế kỷ thứ 19 thì các phế tích này mới
được mọi người biết đến.
Công cuộc nam tiến của VN, cũng như sự bành trướng của
đế quốc Thái gặp nhau. Vô hình chung đế quốc Khmer ở Nam Vang trở thành một quốc
gia “trái độn” ở giữa hai thế lực mạnh mẽ là Thái và Việt. Việc dằng co hai bên
Thái-Việt về Khmer kéo dài khoảng 1 thế kỷ.
Trong khoảng thời gian dằng co này, ta có thể nói rằng
VN đã xây dựng và củng cố xong địa bàn của mình ở miền Nam hiện nay. Các tỉnh
Biên Hòa, Mỹ Tho được xây dựng dưới thời các chúa Nguyễn, nhờ công lao các cựu
trung thần nhà Minh, như Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên. Khu vực Hà Tiên
và vùng chung quanh như Châu Đốc, Rạch Giá, Phú Quốc… cũng được xây dựng nhờ
công lao của một người Hoa khác, thần phục VN, tên là Mạc Cửu.
Năm 1834 dưới triều Minh Mạng, VN đã áp đặt được quyền
lực của mình lên đế quốc Khmer. Nam Vang được gọi là “Trấn Tây Thành”, lãnh thổ
nước này được phân chia ra thành 32 tỉnh, huyện. Đến năm 1841, được sự trợ giúp
của quân Xiêm, dân Khmer ở Nam Vang nổi loạn, quân VN phải rút đi. Nhưng đến
năm 1845 phía Khmer lại cầu cứu VN, vì so ra ách cai trị của quân Xiêm còn bạo
tàn nhiều hơn VN. Cuối cùng đế quốc Khmer phải chịu thần phục cùng lúc hai nước
VN và Thái Lan. Việc này kéo dài cho đến khi đế quốc Pháp vào VN.
Trong khoảng thời gian này thì không có vấn đề gọi
là “tranh chấp về biên giới hay lãnh thổ” giữa hai bên Việt và Miên, mà chỉ có
hiện tượng gọi là cá lớn nuốt cá bé, xảy ra thường trực ở mọi nơi trên thế giới.
Tức là, một dân tộc muốn tồn tại là phải mạnh và không thể để hiện hữu các thế
lực đe dọa chung quanh. Ta thấy, ở Châu Á, trường hợp đế quốc Trung Hoa với các
dân tộc chung quanh, hay tại Châu u, Trung Á, các nước Ả Rập… các đế quốc chinh
phục lẫn nhau để mở rộng bờ cõi. Mạnh được yếu thua. Ta thấy biết bao nhiêu đế
quốc mạnh mẽ như Roma, Ottoman, các đế quốc thuộc văn minh Nhị Hà (tức là
Mésopotamia) thuộc Irak, Iran hiện nay… có lúc cực thịnh, nhưng rồi đều suy
tàn.
Cá lớn nuốt cá bé. Các việc chinh phục xảy ra thường
trực mà không hề dựa trên một phép tắc hay theo một đạo lý nào. Đế quốc Khmer,
đến thế kỷ 14 mạnh mẽ biết bao nhiêu. Sau đó thì suy tàn, đến đỗi con cháu họ
không biết đến nền văn minh rực rỡ Angkor Vat, Angkor Thom của tổ tiên họ ra
sao. Các học giả Tây phương cùng đồng ý rằng, nếu Pháp không kịp thời có mặt tại
Đông dương, đế quốc Khmer chắc chắn sẽ bị mất về hai đế quốc Thái lan và VN.
Các học giả Khmer hiện nay lên án rằng VN chiếm đất
của tổ tiên họ. Điều này trên quan điểm lịch sử và luật lệ quốc tế thì không
thuyết phục. Cũng như VN hiện nay khó mà nại lý do Trung Hoa chiếm đất của tổ
tiên mình ở Quảng Đông, Quảng Tây. Cũng như dân Ý bây giờ đâu thể nào đòi lại
lãnh thổ trước kia thuộc đế quốc Roma, hay nước Thổ đòi tái dựng lại đế quốc
Ottoman. Nếu ai cũng nại lý do như vậy thì thế giới sẽ đảo lộn, biển Địa Trung
Hải sẽ trở thành “nội hải” của nước Ý. Nếu chỉ nói trong khu vực, tại Trung Quốc,
các tỉnh Mãn Châu, Vân Nam, Tây Tạng, Quảng Đông v.v… trước kia là các quốc gia
độc lập. Ai cũng lên tiếng đòi đất, đòi độc lập thì lãnh thổ của Trung quốc sẽ
không còn.
Mặt khác, dân Khmer, ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, không
có quan niệm quốc gia với đường ranh giới rạch ròi, như là quan niệm của văn
minh Trung Hoa. Chính người Khmer, khi lục lại lịch sử của họ cũng không tìm thấy
một tấm bản đồ nào cho mọi người biết là lãnh thổ của họ đã mở từ đâu đến đâu.
Không biết lãnh thổ mình có từ đâu đến đâu thì đòi lại cái gì? và ở chỗ nào?
Quan niệm về quốc gia của dân tộc Khmer chỉ mới có
sau khi tiếp xúc với văn minh Tây phương. Và chỉ sau khi tiếp xúc với Pháp,
công nhận sự bảo hộ của Pháp, lãnh thổ Khmer mới lần hồi thành hình qua các đợt
phân giới và cắm mốc sau này.
Những yêu sách về lãnh thổ của các học giả Khmer khi
nại lịch sử là điều không phù hợp công pháp quốc tế, không ai chia sẻ. Kể cả những
học giả quốc tế có cảm tình nhất với dân tộc này.
2/ Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945:
Sau khi triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước giao các tỉnh
miền Nam cho Pháp năm 1862, thì năm 1856 vua Norodom (Nặc Ông Dương) thỉnh cầu
được sự bảo hộ của Pháp. Ngày 11 tháng 8 năm 1863 hai bên ký ký hiệp định,
vương quốc Khmer, lúc đó gọi là Cambodge, được đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp.
Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các lãnh vực đối ngoại và đối nội.
Nhưng nội dung kết ước này vua Norodom không hề nói
tới lãnh thổ, biên giới của vương quốc mình có từ đâu tới đâu.
Người lãnh đạo Pháp ở địa phương lúc đó là đô đốc De
La Grandière, ông này quyết định phân định biên giới nhằm xác định lãnh vực thuộc
quyền quản trị của Pháp. Nhưng sự mù mờ của biên giới, cộng với sự thiếu hiểu
biết tình hình địa chính trị của khu vực, ông này đã làm cho phía Thái Lan hưởng
lợi.
Biên giới giữa Cambodge với Thái Lan được phân định
hấp tấp, Pháp đại diện Khmer ký kết hiệp ước đầu tiên với Xiêm vào ngày 15
tháng 6 năm 1867, Xiêm từ bỏ quyền “thuợng quốc” của Xiêm đối với Khmer, nhưng
Pháp phải nhượng cho Thái lãnh thổ Khmer ở hữu ngạn sông Cửu Long, tức ½ lãnh
thổ Kampuchia hiện nay, gồm các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap hiện nay.
Điều này trái ngược trên thực tế, vì trước khi Pháp
vào Cambodge, vương quốc này phải chịu thần phục cả hai bên VN và Thái Lan. Lập
trường ở Paris, là khi ký hiệp ước 1862 với triều đình nhà Nguyễn, nước Pháp có
thẩm quyền thay thế nhà Nguyễn về quyền thượng quốc ở vương quốc Khmer. Kết ước
giữa Pháp với vua Norodom chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ không mang tính bó buộc
của pháp lý. Tức là có hay không có hiệp ước này thì lãnh thổ Khmer vẫn chịu
quyền thuợng quốc, tức quyền bảo hộ, của Pháp. Điều này hoàn toàn phù hợp với
“luật lệ quốc tế” trong thời kỳ. Sự sai lầm về biên giới Thái-Miên được sửa chữa
lại vào năm 1893. Các tỉnh của Cambodge nhượng cho Thái trước kia được khôi phục
lại.
Biên giới Việt-Miên được phân định qua hai thời kỳ:
năm 1870 và năm 1873. Cuộc phân định năm 1870 có sự hiện diện của quan chức
Khmer, cắm được 60 mốc, nhưng sau khi phân định xong thì họ lại phản đối. Họ
đòi lại vùng gọi là “mỏ vịt”, và người Pháp đồng ý vạch lại biên giới, trả lại
vùng này cho Cambodge. Cuộc phân định năm 1873 gồm 64 mốc.
Các tài liệu của Pháp về phân định biên giới cho thấy,
vừa sau khi cắm mốc xong, phía Cambodge phản đối, các cột mốc vừa cắm liền bị
nhổ đi và dời về phía VN.
Năm 1887 khối Đông dương được thành lập, Cambodge trở
thành một thành phần của khối này, cùng với Cochinchine (Nam Kỳ), An Nam (Trung
Kỳ) và Tonkin (Bắc Kỳ). Lào chỉ được thành lập sau này, do yêu cầu của ông
August Pavie, vào năm 1893.
Đường biên giới giữa Cochinchine (miền nam) và
Cambodge trở thành đường biên giới hành chánh, nội bộ của Đông dương, thuộc thẩm
quyền của quan Toàn Quyền người Pháp.
Vùng Darlac thì được sáp nhập và VN năm 1895. Điều
này xảy ra do việc trao đổi đất đai: VN nhượng đất Trấn Ninh cho Lào, đồng thời
Lào nhường vùng đất phía nam nước này cho Cambodge. Nhưng sau đó, năm 1899 vùng
này lại trả về Lào, đến năm 1904 mới chính thức trở lại VN. Năm 1923 vùng
Kontum cũng được nhập vào Darlac, đồng thời với vùng đất đỏ phía nam là Buôn Mê
Thuột.
Về lãnh thổ trên biển thì được xác định năm 1939, do
nghị quyết của Toàn quyền Brévié. Đó là một đường thẳng 140°, thẳng góc so với
bờ biển, theo đó các đảo phía bắc đường này thuộc Cambodge và các đảo phía nam
thuộc VN, trong đó bao gồm đảo Phú Quốc.
Đến năm 1939, biên giới trên đất liền hai bên Việt-Khmer
được phân định hoàn tất. Biên giới này là biên giới thuộc địa, thuộc nội bộ của
nước Pháp, chứ không phải là đường biên giới quốc tế giữa quốc gia với quốc
gia.
Các học giả Kampuchia hiện nay, một số theo chủ
nghĩa “irrédentisme”, tức chủ nghĩa đòi lại đất, cho rằng Pháp đã thiên vị VN
lúc phân định biên giới, do đó có khuynh hướng không nhìn nhận đường biên giới
này. Chủ quyền đảo Phú Quốc và các đảo chung quanh cũng bị đặt lại. Điều này
không phù hợp với các luật lệ cũng như tập quán quốc tế.
Theo nguyên tắc “Uti possidetis” của công pháp quốc
tế, áp dụng cho lãnh thổ các nước thuộc địa sau khi lấy lại được nền độc lập.
Trong thời kỳ thuộc địa, lãnh thổ đó do bên này quản lý, thì sau khi dành được
độc lập, vùng đất đó sẽ tiếp tục do bên này quản lý.
Vì vậy, hầu hết lập luận của các học giả Kampuchia
hiện nay, khi lên tiếng đòi lại đất của VN, như đảo Phú Quốc, vùng lãnh thổ gọi
là Khmer Krom (tức là vùng đất hiện nay thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc
Liêu…), đều không thuyết phục, nếu không nói là trái ngược với luật lệ và tập
quán quốc tế.
Thử tưởng tượng, ai cũng có thể đòi lại đất như vậy,
thì nước Mỹ, nước Úc, Canada v.v… sẽ biến mất, vì đất đó là của người dân bản địa,
chứ không phải của dân da trắng hiện nay. Cũng như nhiều nước Nam Mỹ, các nước
Châu Phi… sẽ không còn tồn tại. Nên biết là đường biên giới các nước Phi Châu
là do hai đế quốc thực dân Anh và Pháp phân định. Để ý thì thấy là đường biên
giới ở đây thường đi theo đường thẳng, đường kinh tuyến, vĩ tuyến… nguyên nhân
vì hai bên phân định trong văn phòng, trên bản đồ. Hậu quả của việc phân định
như thế làm cho nhiều dân tộc không có quốc gia, hay một dân tộc bị chia cắt
ra, mỗi phần ở trên một quốc gia khác nhau. Và ta thấy rằng các đường biên giới
đó vẫn còn giá trị pháp lý cho đến hôm nay.
Vì thế đòi hỏi của các học giả Khmer, đi ngược lại
tinh thần của quốc tế công pháp. Điều cần nhấn mạnh là các cuộc phân giới, mặc
dầu do quan người Pháp điều khiển, nhưng các quan chức người Miên và người Việt
đều có hiện diện. Vấn đề là họ không phản đối lúc phân định mà chỉ phản đối khi
phân định đã hoàn tất. Sau này ta sẽ thấy, lập luận của Sihanouk về biên giới
thay đổi như chong chóng, hết dựa phía này đến dựa phía bên kia.
Năm 1945 khi Nhật đến thì lập tức nhảy sang Nhật.
Khi thấy thế lực Trung Cộng nổi lên, Mao Trạch Đông thắng Tưởng Giới Thạch
tháng 10 năm 1949, Sihanouk lại có khuynh hướng dựa vào Trung Cộng. Trong thời
gian hội nghị Genève 1954, ông này nghĩ rằng sẽ được TQ giúp đỡ lấy lại đất, do
đó đưa ra những yêu sách rất phi lý. Trong thời chiến tranh VN, Sihanouk lại
thiên về phía CSVN, giúp phe này, hy vọng khi họ chiến thắng sẽ trả lại đất
đai. Rồi sau 1975, các phe Kampuchia, kể cả Sihanouk, cũng lại chống VN vì họ
cho rằng lãnh đạo CSVN không giữ lời hứa trả lại đất, vì thế cuộc chiến 1978
bùng nổ. Từ đó cho đến nay, vấn đề biên giới, lãnh thổ, hải phận… giữa VN và
Kampuchia, lúc nóng, lúc lạnh tùy thuộc vào sự tốt lành quan hệ ngoại giao giữa
VN và TQ.
Những lúc sau này, tranh chấp giữa VN và TQ căng thẳng
vì việc TQ đặt giàn khoan 981 trong thềm lục địa của VN, ta thấy các sư sãi,
các chính trị gia Kampuchia lại dấy lên các cuộc biểu tình, đòi lại đất. Những
điều này ta sẽ trở lại nói rõ hơn ở phần sau.
3/ Thời kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1954:
Trước khi nói về các diễn tiến liên quan đến biên giới
giữa hai bên Việt-Miên trong thời kỳ này, cũng nên nói lại một số chi tiết liên
quan đến đất đai, lãnh thổ sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9 tháng ba năm
1945.
Sihanouk đơn phương tuyên bố Cambodge độc lập. Tháng 6 năm 1945 Sihanouk đưa kiến nghị lên lãnh đạo Nhật, xin Nhật trả lại Nam Kỳ cho Cambodge, thay vì trả cho triều đinh Huế. Nên biết, lúc đó Nam Kỳ có qui chế là thuộc địa của Pháp, tương tự các lãnh thổ hải ngoại của Pháp hiện nay như Calédonie, Gyuane hay Réunion. Quan chức Nhật chưa quyết định gì thì thua trận Đại chiến trước Đồng minh.
Pháp vào lại VN, gặp nhiều sự kháng cự của kháng chiến
VN, trong khi chính phủ của ông Hồ tuyên bố thành lập nước VNDCCH ngày 2-9-1945
ở miền Bắc. Do những khó khăn này, cùng với thế lực kiệt quệ do đất nước bị tàn
phá do Thế chiến II, Chính phủ Pháp quyết định tổ chức các nước Đông dương để
trở thành Khối liên hiệp Pháp. Ông Bảo Đại được Pháp đề nghị trả lại lãnh thổ
mà nhà Nguyễn đã ký giao cho Pháp trước kia. Điều kiện Bảo Đại là phải trả Nam
Kỳ và nước VN là một nước thống nhất ba miền bắc, trung, nam. Pháp đồng ý
nguyên tắc này và điều này được lập lại trong Hiệp định Genève 1954. Quốc gia
VN được thành lập vào năm 1949, đúng với thể thức quốc tế công pháp. VN cùng với
Lào và Combodge, trở thành những “quốc gia liên kết” trong khối Liên hiệp Pháp.
Phái đoàn của Cambodge được gởi qua Paris điều trần
ngày 2 tháng 4 năm 1949, mục đích thuyết phục quốc hội Pháp trả lại Nam Kỳ cho
Cambodge. Lý lẽ của phái đoàn Cambodge là lúc ký hiệp định bảo hộ với Pháp năm
1863, nội dung kết ước không nói đến số phận của Nam Kỳ, là vì vương quốc này
nhường đất này cho Pháp sử dụng. Bây giờ Pháp không cần đến lãnh thổ này nữa, hợp
lý là phải trả lại cho Cambodge chớ không thể trả cho triều đình Huế.
Lý lẽ này không thuyết phục được chính giới Pháp vì
lẽ, các tỉnh Nam Kỳ là do triều đình Huế nhượng cho Pháp theo các hiệp ước 1862
và 1874. Trong khi hiệp định 1863 giữa Pháp và Miên thì không hề có một điều bảo
lưu nào về lãnh thổ.
Quốc hội bác yêu sách này với đa số. Nhưng yêu sách
về lãnh thổ của Cambodge thì được một số dân biểu cách tả của quốc hội Pháp ủng
hộ.
Thấy đòi nguyên cả Nam Kỳ không xong, ngày 2-5-1949
Quốc hội Cambodge cho ra một kiến nghị yêu cầu nhà nước Pháp phân định lại biên
giới. Những người này cho rằng biên giới giữa Nam Kỳ và Miên chưa bao giờ được
phân định. Các cuộc phân định trước hoàn toàn mang tính cách thiên vị, gây thiệt
hại cho Cambodge. Kiến nghị này cũng bị quốc hội Pháp bác bỏ.
Do căm hận Pháp đã không thỏa mãn các yêu sách của
mình, Sihanouk có khuynh hướng nghiêng về Trung Cộng, là một thế lực đang lên,
đứng sau chính phủ Hồ Chí Minh, đối đầu với Pháp trong vấn đề VN. Ông này nghĩ
rằng TQ sẽ dùng chính phủ của ông chống lại Pháp ở mặt trận phía tây. Vì thế
trong hội nghị Genève 1954, Sihanouk công bố trước các đại cường yêu sách về
lãnh thổ của Cambodge. Sihanouk đề nghị 6 giải pháp, hết sức là cường điệu, có
nội dung dẫn lại sơ lược như sau:
Sihanouk đòi, hoặc trả lại cho Cambodge toàn vùng đất
phía hữu ngạn sông Hậu Giang, bao gồm thêm các tỉnh Trà Vinh, đảo Phú Quốc và
vùng đất giới hạn giữa kinh Tân Châu và sông Tiến Giang đồng thời tàu bè
Cambodge có quyền quá cảnh ở Sài Gòn.
Hoặc là trả lại các vùng lãnh thổ trải dài cho tới hữu
ngạn sông Tiền Giang, gồm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc
Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc và đảo Phú Quốc, quyền được quá cảnh ở Sài
Gòn đồng thời dân Khmer phai được bảo vệ.
Hoặc phải “quốc tế hóa Nam Kỳ”, kinh Vĩnh Tế và hải
cảng Sài Gòn có qui chế tự do, bãi miễn thuế quan. Còn không là phải đặt Nam Kỳ
và đảo Phú Quốc dưới sự quản trị của LHQ.
Các đòi hỏi phi lý này không được nước nào ủng hộ. Sự
bẽ bàng của Sihanouk càng lên cao trong hội nghị Genève tháng 8 năm 1954 giữa
Pháp và các nước Đông dương. Yêu sách của Sihanouk dĩ nhiên không được ngó
ngàng đến. Tuy vậy, kết cuộc hội nghị nhìn nhận Cambodge được quyền thông lưu
trên sông Cửu Long để ra biển cũng như được quyền sử dụng thuơng cảng Sài Gòn.
Nhưng các điều này bị VN bảo lưu, lý do cần xem xét lại luật lệ quốc tế để xem
rằng Cambodge có chính đáng được hưởng các quyền này hay không ? Cuối cùng thì
các quyền này của Cambodge bị VN bác bỏ dưới thời ông Diệm.
4/ Thời kỳ thứ tư, từ 1954 đến 1975.
Sau thất bại ở hội nghị Genève 1954, Sihanouk nuôi
dưỡng ý định trả thù. Ông này dung dưỡng mọi thế lực chống lại chính phủ Bảo Đại,
sau này là Ngô Đình Diệm.
Một số thí dụ, các lực lượng tôn giáo chống ông Diệm
được Sihanouk cho phép lập sào huyệt trên đất Miên. Vì vậy để tảo thanh, quân
VNCH buộc phải đi vào đất của Cambodge. Các xung đột này bắt đầu từ năm 1955.
Dĩ nhiên, Sihanouk lợi dụng các việc này vừa tố cáo VN, trong khi trên thực địa
thì cho người dời cột mốc phân giới sang phía VN. Để trả đũa, ông Diệm tuyên bố
hủy bỏ mọi “quyền lịch sử” của Cambodge trên lãnh thổ VN.
Đến năm 1960 thì lực lượng MTGPMN được thành lập. Tổ
chức này cũng xây dựng sào huyệt trên lãnh thổ Cambodge, dĩ nhiên dưới sự đồng
ý ám thị của Sihanouk. Theo một số tài liệu, phía VNDCCH “nhìn nhận đường biên
giới hiện trạng của Cambodge”, trong khi MTGPMN, cũng như nhiều cán bộ cấp cao của CSVN, thì hứa hẹn,
nếu thắng được VNCH thì sẽ trả lại đảo Phú Quốc cho Cambodge.
Vì các hứa hẹn này các đường mòn gọi là đường mòn
HCM được Sihanouk đồng ý cho thiết lập. Con đường huyết mạch tiếp tế lương thực
và vũ khí cho quân MTGPMN cũng như quân chính qui miền Bắc sau này.
Quan hệ giữa Sihanouk và VNDCCH thân thiết đến mức độ
vào tháng 8 năm 1963, Cambodge tuyên bố chấm dứt ngoại giao với VNCH.
Sau khi ông Diệm bị đảo chánh 1-11-1963, quan hệ hai
bên VNCH và Cambodge vẫn không ấm áp trở lại, mà còn tệ hai hơn. Nguyên nhân,
người Mỹ chính thức đổ quân vào VN, các cuộc hành quân, càn quét, dội bom trên
đất Kampuchia nhằm phá hoại đường mòn HCM… các việc này gây ra những thiệt hại
đáng tiếc cho phía thường dân Kampuchia. Tháng 7 năm 1965, Sihanouk kiện VNCH
lên LHQ về việc xâm phạm lãnh thổ. LHQ có điều tra nhưng chỉ kết luận rằng VNCH
có vào lãnh thổ Cambodge sau đó rút về, vì lý do bên Cambodge có dung chứa các
lực lượng đối kháng, chứ VNCH không có xâm chiếm lãnh thổ của Cambodge.
Không hài lòng kết quả điều tra của LHQ, Sihanouk
lên tiếng kêu gọi quốc tế ủng hộ Cambodge, nhìn nhận “đường biên giới hiện trạng”
của nước này. Một số nước ủng hộ, trong đó có Pháp. Điều này có thể hiểu vì
Pháp vẫn còn cay đắng Mỹ trong việc dành chỗ của Pháp tại Đông Dương, không
giúp Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Năm 1966 Pháp ủng hộ Cambodge “trung lập”.
Nhưng việc này không thuyết phục được ai vì tên đất Kampuchia vẫn còn nguyên
các sào huyệt của MTGPMN cũng như các con đường tiếp tế gọi là đường mòn HCM.
Cuối cùng thì Sihanouk bị tướng Lon Nol lật đổ năm
1970.
Sau khi lên nắm quyền, Lon Nol yêu cầu tất cả các lực
lượng của CSVN rút khỏi Kampuchia. Cũng như bất kỳ một người Cambodge nào khác,
Lon Nol cũng rất bài Việt. Trong lúc cuộc đảo chánh, các cuộc thảm sát thường
dân VN đã diễn ra, thây người thả đầy trên sông Cửu Long. Một số lớn người Việt
phải hồi hương. Việc này càng tạo thêm gánh nặng và sự bất ổn trong xã hội miền
Nam.
Lực lượng Khmer đỏ được thành lập dưới sự yễm trợ và
huấn luyện của CSVN. Trên thực tế, vùng phía bắc lãnh thổ Kampuchia hoàn toàn
do quân đội CSVN kiểm soát. Nhưng trong nội bộ của Khmer đỏ lại có nhánh có
tinh thần bài Việt cực kỳ. Vì thế họ ly khai. Những nhóm này cũng giết chóc và
khủng bố đồng thời trục xuất người Việt, như những lãnh đạo khác của Kampuchia.
Tóm lại, thời kỳ này đường biên giới, cũng như kiều
dân VN sống trên đất Kampuchia, trở thành con tin bị các phía Kampuchia trao đổi
quyền lợi chính trị. Trong thời chiến, vấn đề biên giới không kiểm soát được,
nhưng dân chúng VN là nạn nhân trực tiếp của các tranh chấp này. Con số nạn
nhân VN bị giết phải nói là rất lớn.
5/ Thời kỳ thứ năm từ 1975 đến hôm nay.
Từ năm 1975 cho đến 1990, ta có thể nói rằng khu vực
Đông dương vừa là một chiến trường, vừa là một bàn cờ địa chiến lược của các thế
lực quốc tế, gồm có các nước liên hệ trong khu vực và các đại cường Trung Cộng,
Liên Xô và dĩ nhiên là Mỹ. Vấn đề biên giới, Cambodge không chỉ có tranh chấp với
VN mà còn có tranh chấp với Thái Lan về chủ quyền ngôi đền Préah Viheart cũng
như ranh giới ngoài biển, từ sau khi lấy lại độc lập năm 1953. Trong thời gian
này vấn đề biên giới giữa các bên không chính thức đặt ra, mặc dầu nó luôn là
cái cớ để chiến tranh bùng nổ. Nhất là đối với hai nước Việt-Miên.
Sau khi quân Pol Pot tiến vào Nam Vang, cũng như
quân miền Bắc chiếm Sài Gòn. Tháng 6 năm 1975, một phái đoàn của Khmer đỏ gởi đến
Hà Nội để nhắc lại những cam kết của CSVN: “nhìn nhận đường biên giới hiện trạng
của Cambodge” trong thập niên 60 về vấn đề lãnh thổ của Kampuchia.
Những người này, theo dự kiến là sẽ ký kết ước với
Hà Nội để bảo đảm sự “toàn vẹn lãnh thổ” của hai nước. Nhưng nhóm Khmer đỏ thân
TQ trong phái đoàn bất đồng ý kiến với nhóm thân Hà Nội. Phe thân Bắc Kinh lên
tiếng đòi VN trả lại cho họ vùng lãnh thổ gọi là “Khmer Krom”. Điều nên biết,
chiến thắng ngày 30-4-1975 của CS miền Bắc đã làm cho lãnh đạo Bắc Kinh tức tối.
Chủ trương của TQ từ xưa nay là chống lại VN thống nhất, cũng như chống lại việc
VN quá thân thiện hay lệ thuộc vào Liên Xô.
Phía bắc, áp lực của Liên Xô đã trầm trọng, quân
Liên Xô đóng dài dài trên biên giới gây áp lực. Biển Hoa Đông thì bị Nhật, Đài
Loan án ngữ. Biển Đông thì hạm đội Liên Xô đã có mặt tại Cam Ranh. Nếu
Kampuchia hòa hoãn hay thân thiện với VN thì TQ sẽ không có cách gì để phá vỡ
thế cô lập. Mặt khác, quyền lợi của Mỹ cũng bị đe dọa, các nước chung quanh như
Thái Lan, Mã Lai v.v… sẽ sụp đổ, theo như thuyết Domino của Mỹ. Vì vậy Bắc
Kinh, cũng như Mỹ, chắc chắn phải tìm cách đẩy hai bên VN và Kampuchia vào thế
đối đầu.
Vì thế, cả hai đại cường, Mỹ và TQ, một tư bản, một
cộng sản, do cùng mục tiêu ngăn chặn Liên Xô bành trướng, lại hợp tác với nhau,
ra mặt ủng hộ Pol Pot chống lại VN. Dĩ nhiên, nguyên nhân bên ngoài là tranh chấp
đất đai, nhưng bên trong là sự tranh giành ảnh hưởng địa chiến lược trong khu vực
của các đại cường. Vì vậy, như đã nói, lãnh thổ trong quảng thời gian này là
cái cớ để chiến tranh bùng nổ.
Để kích thích VN vào vòng chiến, trong lúc phái đoàn
Khmer đỏ còn ở Hà Nội thì quân Khmer đỏ đã đánh chiếm cù lao Poulo Wai trong vịnh
Thái Lan. Dọc biên giới thì quân Khmer đỏ đã sẵn sàng dàn quân ứng chiến. Như
thường lệ, những người dân VN sinh sống ở Kampuchia lại trở thành nạn nhân.
Trên 150.000 người bị ngược đãi, trục xuất về VN. Con số bị giết không biết là
bao nhiêu, nhưng chắc chắn không nhỏ. Tháng 6 năm 1976, VN gởi sứ giả sang Nam
Vang hy vọng làm dịu tình hình, nhưng phía Khmer đỏ đòi phải phân định lại biên
giới, thay đổi đường biên giới theo các bản đồ của Sở địa dư Đông dương ấn hành
năm 1954, trong khi phía VN thì nhìn nhận đường biên giới hiện trạng là đường
biên giới thể hiện trên bộ bản đồ này. Mặt khác, hai bên cũng không đồng thuận
về biên giới trên biển.
Phía Khmer đỏ gia tăng khiêu khích, từ năm 1975 đến
1978, bọn này đã tiến sang VN đánh phá và tàn sát dân chúng ở 25 huyện và 96
xã, gây ra trên 257.000 nạn nhân màn trời chiếu đất. Trong năm 1977, Pol Pot
cho quân lính tiến sang Tây Ninh tàn sát dân chúng sinh sống ở đây, nhưng sự phản
ứng của quân VN, do thiện chiến hơn, đã làm cho quân Khmer thiệt hại nặng. Và
cũng để trả đũa những vụ tàn sát dân lành vô tội sinh sống các tỉnh dọc biên giới,
tháng 12 năm 1977, VN mở một cuộc hành quân thần tốc vào tỉnh Svay Rieng khiến
quân Khmer đỏ thiệt hại nặng nề. Cuối năm, Pol Pot tuyên bố chấm dứt quan hệ
ngoại giao với VN.
Chiến tranh Việt-Miên bùng nổ. Dưới sự quan sát của
các học giả quốc tế, cuộc chiến này là một cuộc chiến “ủy nhiệm”. Pol Pot đánh
VN là đánh cho Trung quốc. Còn VN đánh là đánh cho Liên Xô.
Tháng 12 năm 1978, quân VN tiến vào Nam Vang, đánh
đuổi Pol Pot và thành lập chính phủ thân VN ở đây. Cùng với chính phủ này, VN
đã ký kết các hiệp định “các nguyên tắc giải quyết các vấn đề biên giới”. Trên
đất liền ký năm 1982, trên biển ký năm 1983.
Trả lời phỏng vấn báo chí, Nguyễn Cơ Thạch cho rằng
VN tôn trọng đường biên giới hiện trạng theo bộ bản đồ Đông dương 1/100.000.
Nhưng Sihanouk, năm 1984, tố cáo trước dư luận, qua thủ tướng Thái Lan, rằng VN
đã chiếm vùng “mỏ vịt”, tức là tỉnh Svay Rieng.
Về biên giới trên biển, theo nội dung các văn bản
tham khảo được thì hai bên cùng đồng ý “lấy đường Brévié được vạch ra năm 1939
làm đường phân chia các đảo trong khu vực này”, hai bên đồng thuận về “vùng nước
lịch sử” trong khu vực đảo Phú Quốc và “sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp…
để hoạch định đường biên giới biển giữa hai nước”.
Đảo Wai được VN trả lại cho Kampuchia.
Tháng 12 năm 1985 hai bên ký lại “Hiệp ước hoạch định
biên giới”. Ngày 10-10-2005 ký thêm “Hiệp ước bổ sung” về biên giới. Hai bên bắt
đầu cắm mốc từ năm 2006. Ta thấy tỉnh Svay Riêng, tức vùng Mỏ vịt, vẫn thuộc
lãnh thổ của Kampuchia. Tức là lời tố cáo của Sihanouk là không đúng.
Điều nên biết, sau khi quân Pol Pot vào Nam Vang
thành lập chính quyền thì Sihanouk được mời về làm quốc trưởng. Nhưng liền sau
đó thì bị bạc đãi, tính mạng bị đe dọa. Bắc Kinh tìm cách can thiệp và đưa ông
này đi Trung Quốc. Ở Bắc Kinh Sihanouk được đối đãi như là một thuợng khách.
Bởi vì lãnh đạo Trung Nam Hải biết được giá trị ở
con cờ Sihanouk. Ông vua này có thể làm bất cứ điều gì để chống lại VN. Cũng vì
lý do này mà đất nước Kampuchia điêu linh, thần dân của ông bị nhà nước Khmer đỏ
tiêu diệt gần 1/3, trong đó có họ hàng thân thích của ông. Điều trớ trêu là nhà
nước này do TQ dựng lên, lúc đó ông là một thành phần của nhà nước này.
Tuy vậy, hiện nay TQ vẫn là một đồng minh được ưa chuộng tại Kampuchia.
Người Việt ở đây bị kỳ thị bao nhiêu thì người Hoa
được ưu đãi bấy nhiêu. Toàn thể huyết mạch kinh tế TQ hiện nay là do 10 giòng họ
người Hoa nắm giữ. Liên minh Trung Hoa – Khmer hứa hẹn sẽ bền chặt lâu dài mà
chất keo hàn gắn hai bên là tinh thần bài Việt. Vấn đề lãnh thổ luôn được các
bên sử dụng như là một cái cớ để khích động dân chúng để chống đối VN.
6/ Yếu tố Trung Quốc.
Như đã nói ở trên, sau 1975, lãnh thổ chỉ là cái cớ
để TQ kích động khiến Khmer đỏ gây hấn VN. Thì bây giờ cũng vậy, vấn đề lãnh thổ
cũng là cái cớ để TQ khích động tinh thần bài Việt trong dân chúng Kampuchia
trong thời gian gần đây.
Vấn đề là biên giới trên đất liền đã được hai bên ký
hiệp định và các mốc giới vừa được cắm xong. Hai bên đều thỏa mãn với yêu sách
của mình, vì việc phân giới được thực hiện trên tinh thần bình đẳng, không ai
ép ai. Do đó sử dụng lãnh thổ vùng biên giới để kích động đã không còn hữu hiệu.
Những người Kampuchia hiện nay lên tiếng chống VN thuộc phe Sam Rainsy, một người
theo dân tộc chủ nghĩa, rất thân TQ. Lá cờ đầu để những người này trương lên chống
VN trước kia là các cột mốc biên giới, nay đổi lại là vùng Khmer Krom và những
người dân bản địa sống ở đó.
Nhưng việc khích động người dân như thế không dễ
dàng, nếu không có một cái cớ chính đáng nào đó. Điều này lại do nhà cầm quyền
CSVN tạo ra. Đó là chính sách hà khắc của nhà cầm quyền này lên những người dân
của họ. Điều này không làm ai ngạc nhiên, vì chính đồng bào ruột thịt của họ là
dân miền Nam cũng bị phân biệt đối xử. Những người dân bản địa (mà nhiều người
hiện nay gọi là người Việt gốc Miên) bị truất hữu ruộng đất, và đây là nguyên nhân
của mọi nguyên nhân khiến người dân ở đây chống nhà cầm quyền VN.
Nếu ta xét lại những đòi hỏi của những người tổ chức
biểu tình chống VN ở Nam Vang thì ta thấy nó không rõ ràng, đôi khi mâu thuẩn.
Những yêu sách của họ như buộc VN phải “nhìn nhận sự thật lịch sử”, hay nhìn nhận
“VN chiếm đất của Kampuchia” đều có vẻ không thực tế.
Vấn đề là họ đã lầm lẫn giữa quyền sở hữu đất đai của
những người dân bản địa bị nhà nước CSVN truất bỏ, với chủ quyền về lãnh thổ.
VN có chủ quyền về lãnh thổ ở các khu vực mà dân
Khmer gọi là Khmer Krom, điều này đã được củng cố bởi thời gian hàng nhiều thế
kỷ qua, cũng như được bảo đảm bởi luật lệ quốc tế. Ý nghĩa của từ chủ quyền ở
đây là “quyền lực chủ tể” trên vùng lãnh thổ đó chứ không phải là “quyền làm chủ”,
hay quyền sở hữu vùng lãnh thổ đó như nhiều người đã hiểu lầm.
Quyền lực chủ tể có thể ban phát quyền sở hữu về đất
đai, nhưng cũng có thể truất hữu, hay bãi bỏ quyền đó. Vấn đề là nhà nước CSVN
lạm dụng “quyền chủ tể” này, truất hữu hàng loạt ruộng đồng, nhà cửa, không chỉ
của dân bản địa, mà của nhân dân trên khắp ba miền đất nước, gây sự bất mãn
cùng cực nơi mọi tầng lớp người dân. Cán bộ CS lạm dụng quyền chức, lấy đất của
người thấp cổ bé miệng giao cho những thế lực tài phiệt nhằm trục lợi. Các điều
này tạo ra những bất công, làm cho sự thù hận của người dân ngun ngút đến trời
cao.
Vì vậy, do nhập nhằng về khái niệm, những người dân
bản địa phẫn uất đã bỏ VN sang sinh sống ở Kampuchia. Tại đây họ được các thế lực
bài Việt kích động, trở lại chống VN. Điều cần nhấn mạnh: họ là người VN, sinh
đẻ tại VN, tổ tiên của họ đã ở trên vùng đất đó từ lâu đời. Điều ngạc nhiên là
đến bây giờ những người này vẫn bị xem là “người Việt gốc Miên”. Tức là chính
sách phân biệt giai cấp của CSVN đã đổi màu để biến thành chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc.
Trên đất Kampuchia, mặc dầu họ có chung nguồn gốc xa
xôi, nhưng họ vẫn là người VN. Để tạo sự tin tưởng nơi người Kampuchia chính gốc,
những người dân Việt ly hương này chống VN còn cực đoan hơn những người dân
Kampuchia chính gốc. Đây là một hiện tượng tâm lý, dễ bị người khác lợi dụng.
Điều đáng lo ngại là TQ có thể sử dụng lớp người bất
mãn này, nuôi dưỡng họ, huấn luyện họ. Trong khi kinh tế Kampuchia lại có
khuynh hướng phát triển hơn VN. Việc này càng tạo cho Kampuchia một sức hút khiến
người Việt đổ xô về đây tìm cách sinh sống. Tất cả các yếu tố này đều nguy hiểm
cho VN. Ta không thể bỏ qua viễn tượng, một ngày nào đó, chính những người Việt
này được TQ vũ trang để trở về chống lại VN.
Lúc đó, một VN yếu, kinh tế kém phát triển, kéo theo
sự yếu kém về quân sự, có thể dễ dàng bị lệ thuộc vào nước ngoài.
7/ Giải pháp nào?
Như đã nói, vấn đề bài Việt ở những người dân bản địa
VN, vấn đề đòi lại đất, là do từ chính sách hà khắc của nhà nước CSVN. Chủ
trương “sở hữu tập thể về đất đai” thực ra là để tạo một nguồn kinh tài cho đảng
CSVN. Ở VN hiện hữu cái gọi là “quĩ đất”. Lãnh đạo có thể sử dụng đất từ các
“quĩ” này như là một nguồn tài chánh, tương tự như các mỏ dầu khí, đưa vào ngân
sách quốc gia để chi phí điều hành. Việc lạm dụng đã tạo ra tại VN một tầng lớp
dân oan, những người trắng tay vì đất đai bị truất hữu. Việc truất hữu phần nhiều
không minh bạch, vì mục đích của nó không nhằm phục vụ cho quyền lợi của số
đông mà chỉ cho một vài cá nhân, tài phiệt. Những người dân oan này phần nhiều
là những người dân tộc thiểu số vùng tây bắc, trên tây nguyên, hay ở miền Nam.
Trong khi việc tạo “quĩ đất” không hề thúc đẩy kinh
tế phát triển. Ngược lại, tệ nạn đầu cơ về nhà đất đã tạo ra những bong bóng
tài chính đe dọa sự hiện hữu cũng như các hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Nền
kinh tế VN có nguy cơ sụp đổ.
Khi đã biết được nguyên nhân thì biện pháp chế ngự hệ
quả không phải là việc khó khăn. Đối với những người dân bản địa ở miền Nam, để
họ không bỏ nước sang Kampuchia lập tổ chức chống đối, điều nhà nước cần phải
làm là cho những người đó thấy là sống ở VN sung sướng, thoải mái hơn là sống ở
Kampuchia. Việc này không chỉ áp dụng cho những người dân bản địa, mà cho chung
mọi người dân VN. Tức là kinh tế VN phải phát triển hơn Kampuchia. Chế độ VN
nhân bản, tình người hơn chế độ Kampuchia. Tức là, chỉ còn cách duy nhất là
thay đổi thế chế chính trị: dân chủ hóa chế độ. Chỉ dưới một chế độ dân chủ VN
mới có thể phát triền lành mạnh.
Tiếp theo là trả lại cho người dân những gì đã là của
họ. Những gì của tổ tiên họ đã tạo ra, đã là của họ, thì phải trả lại cho họ.
Trả ở đây là trả quyền sở hữu đất đai chứ không phải từ bỏ “chủ quyền lãnh thổ”.
Kế đến là xây dựng một chính sách “hòa giải dân tộc”. Làm thế nào cho mọi người
dân thấy rằng họ được tôn trọng. Tôn trọng về nhân vị là tôn trọng văn hóa, tôn
giáo, lịch sử, lề lối sinh hoạt… của người dân đó.
Sẽ không có biện pháp nào khác. Mọi đàn áp, trừng trị
tù tội hôm nay sẽ không dẹp được ngọn lửa căm hờn, mà chỉ làm cho áp lực ngày
càng tăng thêm. Một khi nhà nước yếu đi, vì lý do kinh tế thí dụ vậy, thì ngọn
lửa này sẽ bùng cháy mãnh liệt. Nếu được sự tiếp tay của ngoại bang, thì VN sẽ
không có cách nào trấn áp được. Lãnh thổ bị phân liệt là điều sẽ đến.
No comments:
Post a Comment