Võ Văn Quản - Luật
Khoa
09/06/2019
Con đường duy nhất để giải quyết sự xung đột ý thức
hệ và những tranh cãi chính trị khác giữa các tầng lớp nhân dân là bằng những
biện pháp dân chủ, biện pháp trao đổi, phản biện, thuyết phục và giáo dục;
không thể bằng bạo lực hay đàn áp”. (?!)
Mao Trạch Đông
Con đường đúng về giải quyết mâu thuẫn giữa nhân dân, 1957
Con đường đúng về giải quyết mâu thuẫn giữa nhân dân, 1957
*
Những lời có cánh của Mao Trạch Đông về giải quyết
mâu thuẫn trong lòng xã hội khiến người ta liên tưởng đến một mô hình báo chí tự
do. Trao đổi, phản biện, thuyết phục và giáo dục,
đó là những điều mà chúng ta luôn có thể kỳ vọng, và được thực hiện một cách dễ
dàng nhất thông qua một môi trường báo chí lành mạnh, không bị kiểm soát.
Song thứ báo chí mà Chủ tịch Mao xây dựng dường như
lại không nằm trong nhóm “biện pháp dân chủ” như chúng ta tưởng. Hoặc có thể là
“dân chủ phương Đông” khác “dân chủ phương Tây” chăng?
Thành tựu kinh tế của Trung Quốc được cho là không cần
đến tự do báo chí. Ảnh minh họa: Mark Schiefelbein / The Associated Press
Các nhà báo Trung Quốc được đòi hỏi phải “vừa
Hồng vừa Chuyên” (being Red and Expert), một thuật ngữ cũng khá quen
thuộc tại Việt Nam. Họ dành một phần ba thời gian làm việc để học chính trị – học
nghị quyết, tìm hiểu đường lối chủ trương chính sách của Đảng. Họ phải học cách
phê bình và tự phê bình để tránh những “viên đạn bọc đường”
(sugar-coated bullets) tha hóa của chủ nghĩa tư bản. Trong phiên bản
xã hội chủ nghĩa kinh điển này, không Chuyên có thể trau dồi thêm,
nhưng không Hồng thì sẽ phải đối mặt với lao động cải tạo và tạm giam tại gia.
Chính sách tiêu cực này không hẳn không có nguồn gốc.
Một cách khách quan, Mao chính là người khởi xướng Bách hoa Vận động, được biết
đến tại Việt Nam với tên gọi Trăm hoa đua nở, Trăm nhà đua tiếng (Letting a
hundred flowers blossom, Letting a hundred schools of thought contend).
Đây là giai đoạn mà, như tên gọi, việc tự do thảo luận về tất cả các vấn đề xã
hội tại Trung Quốc là được phép; nhưng nó đồng thời cũng đẩy mạnh làn sóng phe
cánh tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi) – người được ủng hộ
bởi các nhóm trí thức như Thượng Hải tinh anh (gồm sinh viên tại trường Đại học
Phúc Đán lừng danh, các nhà báo nổi tiếng ở thời điểm này), cũng như được hậu
thuẫn bởi nhiều nhân vật cấp cao của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa khác
như Lục Định (Lu Dingyi – lúc đó đương là Trưởng ban Tuyên giáo
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Hoa) hay Hồ Kiều Mộc (Hu Qiaomu – là
Trưởng văn phòng Báo chí – Tuyên truyền của Chính phủ Trung ương Trung Hoa
trong thập niên 1950) v.v. bắt đầu một chiến dịch truyền thông đối kháng với
Mao.
Lưu Thiếu Kỳ là một
nhà lãnh đạo Cộng sản quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Tuy nhiên, ông cũng
bị dán nhãn là Khrushchev của Trung Quốc, và là đối tượng chính trị cấp cao bị
nhắm đến nhiều nhất trong Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản. Ảnh: Sovfoto / UIG via
Getty Images
Lưu, với tư tưởng đậm chất Tây học của mình, vẽ ra kế
hoạch bốn điểm cho sự vận hành của báo chí Trung Quốc:
1. NCNA (New China News Agency) – Tân Hoa Xã cần phải được tổ chức như là một
cơ quan dân sự như mô hình của TASS tại Liên Xô hay các cơ quan truyền thông
nhà nước phương Tây khác;
2. Cơ quan truyền thông có quyền đăng tải cả tin tức tích cực lẫn tiêu cực về
quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa của quốc dân;
3. Báo chí cần hạn chế đưa tin tức mang tính chất cổ động, tuyên truyền thái
quá;
4. Phóng viên, nhà báo cần được giữ phong cách viết riêng và phải được phép
để danh tính riêng trong bài báo của mình.
Mao Trạch Đông dần nhận ra điều hại nhất của Trăm
hoa đua nở: Ông ta không quen với việc bị chỉ trích. Đầu năm 1957, nhiều tác phẩm
của Mao bị từ chối xuất bản bởi báo chí nhà nước, kể cả bài viết Con
đường đúng về giải quyết mâu thuẫn giữa nhân dân nói trên – tác phẩm
mà Mao kỳ vọng sẽ trở thành tôn chỉ định hướng sự phát triển của báo chí toàn quốc.
Có tư duy tương phản khá cơ bản so với Lưu Thiếu Kỳ, Mao đưa ra 6 nhận định về
mục tiêu của báo chí như sau:
1. Ngôn từ và hành vi của báo chí truyền thông cần ủng hộ sự thống nhất,
không phải chia rẽ giữa các dân tộc, sắc tộc khác nhau;
2. … cần tạo ra điều kiện thuận lợi cho quá trình tiến lên xã hội chủ nghĩa
cũng như việc xây dựng xã hội chủ nghĩa;
3. … cần hỗ trợ cho việc củng cố nền dân chủ chuyên chế (democratic
dictatorship) của nhân dân lao động;
4. … cần hỗ trợ cho việc tăng cường sức mạnh của dân chủ tập trung;
5. … cần hỗ trợ tăng cường sức mạnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
6. … cần tạo điều kiện thuận lợi cho sự thống nhất xã hội chủ nghĩa quốc tế
và sự đoàn kết của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Với tư duy của người cầm trịch như vậy, không khó để
tưởng tượng tương lai của phong trào Bách hoa Vận động. Ngay trong năm 1957,
sau khi nhiều tờ báo trên toàn quốc quyết định cho đăng bài có khuynh hướng chống
(hoặc phản bác, xét lại) chủ nghĩa xã hội cũng như tư tưởng Mao, phong
trào Diệt
Cánh hữu khét tiếng được Mao khởi động, dùng vũ lực đẩy lùi làn
sóng trao đổi tự do ngôn luận trên báo chí ngắn ngủi tại quốc gia này.
Một cuộc tuần hành
trong giai đoạn diễn ra phong trào Diệt Cánh hữu. 500,000 trí thức, nhà báo đã bị
cưỡng ép về nông thôn phục vụ vì dám lên tiếng chống Mao trong phong trào Bách
hoa Vận động trước đó. Ảnh: South China Morning Post.
Kể từ đó, tư duy quản lý báo chí của Trung Quốc được
duy trì cho đến nay, dù mật độ và tần suất đàn áp khác biệt theo từng thời kỳ.
***
Nhưng rồi tự do báo chí thì để làm gì? Sau ngần ấy
năm người ta vẫn hỏi nhau câu hỏi đó. Trung Quốc cấm đoán, kiểm duyệt báo chí
trong hơn nửa thế kỷ như vậy, nhưng chẳng phải nền kinh tế của họ vẫn đang phát
triển thần kỳ, thu nhập của quốc gia tỉ dân này vẫn đang tăng lên chóng mặt hay
sao?
Nhiều người bảo nhau hãy so sánh Trung Quốc với Ấn Độ
xem sao. Cả hai quốc gia đều cùng khu vực địa lý, đều có dân số khá tương đồng,
đều được trời phú cho một nền văn hóa tương đối bảo thủ. Trung Quốc độc đoán và
gần như không tồn tại tự do báo chí. Nền dân chủ Ấn Độ, dù không hoàn hảo, lại
cung cấp một hệ thống thông tin trao đổi cởi mở hơn; nhưng dường như điều này lại
không có lợi gì cho quá trình phát triển của Ấn Độ cả.
Nhìn một cách khách quan, Trung Quốc không chỉ vượt
mặt Ấn Độ về tốc độ tăng trưởng kinh tế (dù Ấn Độ đã có tốc độ tăng trưởng rất
đáng ngưỡng mộ). Trung Quốc còn vượt Ấn Độ về tỉ lệ người biết chữ, vượt về tuổi
thọ trung bình, vượt trội về dịch vụ an sinh xã hội và các chương trình chăm
sóc sức khỏe .v.v. Không có tự do báo chí, không có sự lộn xộn của các cuộc đấu
tranh tư tưởng, những tranh cãi nảy lửa trên truyền thông, Trung Quốc vẫn đạt
được điều mà người Ấn phải mơ ước. Vậy sự lộn xộn ấy có thật sự cần thiết hay
không?
Cần thừa nhận rằng với mô hình quyết định từ trên
chóp bu xuống, không được thắc mắc hỏi han ý kiến gì thêm, giới lãnh đạo Trung
Quốc với quyết tâm đẩy lùi nạn đói, nạn mù chữ mạnh mẽ… đã làm nên những điều
phi thường tại quốc gia tỉ dân. Điều này xứng đáng được khen ngợi.
Tuy nhiên, cũng không vì thế mà chúng ta quên rằng một
môi trường chính trị thiếu vắng tự do báo chí mong manh đến như thế nào. Dù
Trung Quốc đang trên đà thành công, nhưng cái giá phải trả là nạn đói kéo dài từ
1959 đến 1962, được các sử gia ghi nhận đã
giết chết hơn 30 triệu người.
Kèm theo đó, những chính sách công chủ quan, thiếu
lý tính và cực kỳ gây hại cho cộng đồng cũng không gặp một chút phản kháng.
Từ Đả
Ma tước Vận động (Chiến dịch Diệt chim sẻ), đến sự trỗi dậy của Hồng
Vệ Binh; từ Đại Nhảy vọt đến Cách mạng Văn
hóa; không có lý do nào để biện minh cho tác hại kinh hoàng của các chính
sách dựa vào số ít, kiểm duyệt thông tin, không thông qua trao đổi, đối thoại
và phản biện dân chủ bằng con đường tự do báo chí.
Ngày nay, các lãnh đạo Trung Quốc đã được trang bị
các kiến thức kinh tế pháp luật phương Tây kỹ càng hơn, họ cũng đưa ra những
quyết định duy lý và khoa học hơn. Nhưng như với tham vọng hao tiền tốn về một
vành đai – một con đường (BRI) của Tập Cận Bình, vốn mang bản chất và quyết tâm
chính trị rất cao từ phía lãnh đạo Trung Quốc, việc các nhóm đối lập ở quốc gia
này có được một cuộc đối thoại sòng phẳng với chính quyền Trung Quốc về BRI là
gần như không thể xảy ra.
Nhìn rộng hơn ra thế giới, sự bất bình thường của
Trung Quốc càng không làm thay đổi tầm ảnh hưởng của tự do báo chí, tự do thảo
luận đối với sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Tự do báo chí và
phát triển kinh tế – xã hội luôn được nhiều nghiên
cứu khoa học chứng minh là hàm đồng
biến của nhau.
Biểu đồ trong
nghiên cứu của Daily Signal thể hiện mối liên hệ đồng biến giữa sự cởi mở, phát
triển của một nền kinh tế cởi mở với tự do báo chí.
Mối liên hệ giữa chúng cũng không phải là một thứ
khoa học tên lửa gì đó xa xôi khó hiểu. Báo chí tự do sẽ thay mặt người dân điều
tra, phát hiện các vụ tham nhũng, tăng cường sự minh bạch và hiệu quả hoạt động
của các cơ quan nhà nước. Mặt khác, sự tự do này cũng tạo môi trường cho các
thành phần trong xã hội, các chuyên gia v.v. tham gia, phát hiện những chính
sách tồi; phản biện, thảo luận và đóng góp cho sự hoàn thiện của nó. Khi con đường
được vạch ra là đúng về mặt khoa học, cũng như đã thông qua trao đổi và từ đó đạt
được sự đồng thuận nhất định từ người dân, hiệu quả kinh tế của chính sách đó gần
như sẽ được bảo đảm một cách toàn diện.
Không chỉ vậy, những người ngưỡng mộ sự phát triển
kinh tế của Trung Quốc và cho rằng hạn chế tự do báo chí là đúng đắn có lẽ quên
hoặc chưa biết rằng sự thiếu minh bạch thông tin đã dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng cho các cộng đồng của quốc gia này, dù đây đều là những tai ương
hoàn toàn có thể được ngăn chặn, phòng tránh.
Ví dụ, vào thập niên 1990, khi HIV
/ AIDS bắt đầu lây lan ở Trung Quốc, Bắc Kinh hết sức ngần ngại trong
việc tuyên truyền, cổ động và áp dụng các biện pháp phòng chống căn bệnh thế kỷ.
Thậm chí nhiều địa phương còn ngăn cản, cấm đoán việc đưa tin liên quan đến hiện
tượng, khiến cho tình hình ngày càng trở nên trầm trọng. Chỉ khi chuyển biến trở
nên quá tồi tệ, người dân mới biết đến sự đã rồi.
Hay trong scandal sữa
chứa melamine tại Trung Quốc gây chấn động toàn thế giới vào năm 2007-2008, một
phần nguyên do lớn là bởi vì đài truyền hình quốc gia Trung Quốc CCTV cũng như
một số quan chức trung ương đã hỗ trợ các chính quyền địa phương và những công
ty sữa lớn che đậy, đàn áp tin tức liên quan đến vụ bê bối. Chỉ đến khi vụ việc
bị phát giác bởi các chính phủ nước ngoài, người Trung Quốc mới rõ sự tình.
Song, đến lúc đó, đã hơn 1000 đứa trẻ được phát hiện bị sỏi thận, hàng chục
ngàn đứa trẻ khác bị nhiễm độc. Trong đó, có hai em tử vong với nguyên nhân trực
tiếp được xác định là sữa có chứa melamine của Trung Quốc.
***
Tự do báo chí có vẻ là một thứ quyền lợi xa vời với
cuộc sống cơm áo gạo tiền của con người. Trung Quốc có thể là một điều thần kỳ
xét trên phương diện kinh tế. Song trong khi chúng ta không thế chắc chắn rằng
sự kỳ diệu ấy có đến từ cấm đoán báo chí hay không, thì những hậu quả tệ hại mà
việc cấm đoán báo chí để lại trong lịch sử Trung Quốc hoàn toàn đủ thuyết phục
để cho người ta lật ngược lại câu hỏi: Cứ cấm đoán, kiểm soát báo chí thì được
gì?
No comments:
Post a Comment