Trà
Mi dịch
Posted on June
8, 2019 by editor_
Ngày
nay, trên bề mặt Trung Quốc có một chế độ mạnh hơn so với bất kỳ thời đại nào kể
từ triều đại Mao Trạch Đông, nhưng nó cũng dễ vỡ hơn.
Thủ tướng Zhao
Ziyang, lãnh đạo tối cao Đặng Tiểu Bình và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Hu Yaobang
tại một cuộc họp năm 1984. Ảnh: AP
Ngày 15 tháng 4 năm 1989, nhân vật lãnh đạo được hâm
mộ ở Trung Quốc Hu Yaobang (Hồ Diệu Bang) chết sau một cơn đau tim ở Bắc Kinh.
Hai năm trước, Hồ Diệu Bang đã bị cách chức Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc
vì quá cởi mở. Trong những ngày sau khi ông qua đời, hàng ngàn sinh viên từ các
đại học ở Bắc Kinh đã tập trung tại Quảng trường Thiên An Môn, ở trung tâm Bắc
Kinh, để đòi đảng [cộng sản] tổ chức một đám tang xứng đáng cho ông.
Tôn vinh Hồ Diệu Bang là cách các sinh viên bày tỏ sự
không hài lòng của họ đối với tham nhũng và lạm phát đã bùng phát trong
mười năm cải cách và mở cửa dưới quyền Đặng Tiểu Bình, người lãnh đạo tối cao của
Trung Quốc, và sự thất vọng của họ khi không có tự do hóa chính trị. Trong bảy
tuần sau đó, các nhân vật lãnh đạo đảng cộng sản đã tranh luận về cách đối phó
với những cuộc biểu tình và họ đã đưa ra những tín hiệu không đồng nhất cho
công chúng. Trong khi đó, số người biểu tình tăng lên có thể gần tới một triệu,
gồm công dân từ nhiều tầng lớp xã hội. Sinh viên chiếm quảng trường tuyên bố
tuyệt thực, yêu cầu của họ ngày càng triệt để và các cuộc biểu tình lan rộng đến
hàng trăm thành phố khác trên khắp Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình quyết định tuyên
bố thiết quân luật, có hiệu lực vào ngày 20/5.
Nhưng những người biểu tình nhất định phản kháng và
họ Đặng ra lệnh dùng vũ lực bắt đầu vào đêm ngày 3 tháng Sáu; trong 24 giờ sau
đó, hàng trăm người đã thiệt mạng, nếu không muốn nói là nhiều hơn; vẫn chưa được
biết số người chết chính xác. Bạo lực đã kích động sự nổi dậy lan rộng khắp xã
hội Trung Quốc và dẫn đến sự lên án của quốc tế, và các nước dân chủ trong khối
G-7 áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế đối với Trung Quốc. Zhao Ziyang (Triệu Tử
Dương), Tổng bí thư của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã ủng hộ cách đối xử ôn hòa
và không chấp nhận quyết định sử dụng vũ lực. Đặng Tiểu Bình lật đổ Triệu Tử
Dương ra khỏi vị trí quyền lực, và họ Triệu bị quản thúc tại gia, cho đến khi
ông chết vào năm 2005.
Hơn hai tuần sau, vào ngày 19-21 tháng 6, cơ quan ra
quyết định hàng đầu của đảng, Bộ Chính trị, đã triệu tập cuộc họp mà họ gọi là
một cuộc họp ‘mở rộng’, một cuộc họp gồm cả những đảng viên lớn tuổi đã nghỉ
hưu và có ảnh hưởng nhất. Mục đích của việc tập hợp nhóm đảng viên này là để thống
nhất giới tinh hoa của đảng đang chia rẽ xung quanh các quyết định của Đặng Tiểu
Bình trong việc sử dụng vũ lực và loại bỏ họ Triệu ra khỏi Bộ Chính trị. Cách đối
phó của đảng cộng sản đối với cuộc khủng hoảng năm 1989 đã định hình tiến trình
của lịch sử Trung Quốc trong ba mươi năm kế tiếp và cuộc họp mở rộng của Bộ
Chính trị đã định hình cách đối phó đó. Nhưng những gì được nói trong cuộc họp
chưa bao giờ được tiết lộ cho đến hôm nay.
Một trang ghi lại sự
kiện ngày 4 tháng 6 năm 1989, trong nhật ký của Li Rui (Lý Duệ), một trong những
thư ký riêng của Mao, với tiêu đề Cuối tuần Đen tối. Hình ảnh:
Thư khố Viện Hoover.
Nhân kỷ niệm 30 năm cuộc đàn áp tàn bạo ngày 4 tháng
6, New Century Press (Thế Kỷ Mới), một nhà xuất bản tại Hồng Kông, sẽ xuất bản
“Zuihou de mimi: Zhonggong shisanjie sizhong lòngui liusi tựa jielun wengao” (Tối
hậu đích bí mật: Trung Cộng thập tam giới tứ trung toàn hội “lục tứ” kết
luận văn đương hay “Bí mật cuối cùng: Tài liệu cuối cùng về Cuộc đàn
áp 4 tháng 6”), gồm các bài phát biểu của những đảng viên hàng đầu đã phát biểu
tại phiên họp. Thế kỷ Mới có được những bản tốc ký (và hai văn bản ghi lại nhận
xét) từ một đảng viên đã lấy được bản sao ngay lúc đó. Năm 2001, tạp chí này đã
xuất bản các trích đoạn từ Hồ sơ Thiên An Môn (The Tiananmen Papers), một loạt
các báo cáo chính thức và biên bản cuộc họp đã được bí mật đưa ra ngoài Trung
Quốc và những tài liệu ghi lại các cuộc tranh luận gay gắt và đưa ra quyết định
gây tranh cãi khi đảng cộng sản phải đối phó với các cuộc biểu tình ở Trung Quốc
mùa xuân năm 1989. Đến nay, những bài diễn văn mới tiết lộ này đã làm sáng tỏ
những gì đã xảy ra sau cuộc đàn áp, nói rõ về những bài học mà giới lãnh đạo đảng
rút ra từ cuộc khủng hoảng Thiên An Môn:
Nguồn: New Century Press
1. Đầu tiên, Đảng Cộng sản Trung Quốc đang bị nội thù trong nước thông đồng
với kẻ thù ở nước ngoài thường trực bao vây;
2. Thứ hai, những cải cách kinh tế phải lùi lại nhường chỗ cho việc kỷ luật
ý thức hệ và kiểm soát xã hội;
3. Và thứ ba, đảng cộng sản thất bại trước kẻ thù nếu để nội bộ chia rẽ.
Hình
: Sinh viên Trung Quốc trong một cuộc biểu tình ở
Quarg trường Thiên An Môn, Băc Kinh, Tháng 4, 1989. Ảnh: Stringer Network / Reuters
Những bài phát biểu đưa ra một cái nhìn ở hậu trường
đáng chú ý về văn hóa chính trị độc đoán trong thực tế – và một dấu hiệu của những
gì sẽ xảy ra ở Trung Quốc, trong những thập kỷ sau đó, đảng cộng sản đã sử dụng
các hình thức kiểm soát tinh vi và xâm phạm hơn bao giờ hết để chống lại lực lượng
đòi tự do hóa. Đọc những văn bản đó, người ta có thể thấy những đảng viên tại
chức đã đoàn kết với những đảng viên lão thành đã nghỉ hưu nhưng vẫn giữ được
quyền lực trong giai đoạn đầu của thời hậu Mao. Những người này từ lâu đã lo sợ
rằng những cải cách của Đặng Tiểu Bình quá tự do, đã hoan nghênh cuộc đàn áp,
và những người từ lâu ủng hộ cải cách và mở cửa đã phải chấp hành lệnh của đảng.
Các bài phát biểu cũng cho thấy rõ những bài học rút
ra từ Thiên An Môn tiếp tục hướng dẫn lãnh đạo Trung Quốc như thế nào: người ta
có thể vẽ một đường thẳng nối liền những quan điểm và đã được đưa ra trong cuộc
họp của Bộ Chính trị tháng Sáu năm 1989 với cách đối xử cứng rắn với sự đổi mới
và người bất đồng chính kiến mà hiện nay Chủ tịch
Tập Cận Bình đang theo đuổi.
Cả thể thế giới có thể đang đánh dấu kỷ niệm
30 năm của cuộc khủng hoảng Thiên An Môn như một chương sử quan trọng của Trung
Quốc cận đại. Tuy nhiên, đối với chính phủ Trung Quốc, Thiên An Môn vẫn là một
điềm báo đáng sợ. Mặc dù chế độ hiện tại đã xóa sạch các sự kiện của ngày 4
tháng 6 khỏi ký ức của hầu hết người dân Trung Quốc, nhưng họ vẫn sống với hậu
quả của nó.
Luận điệu của Đảng
Bộ Chính trị đã không triệu tập những người tham gia
cuộc họp của mở rộng để tranh luận về sự khôn ngoan của các quyết định của Đặng
Tiểu Bình. Đảng cộng sản triệu tập họ đến cuộc họp để làm lễ bầy tỏ lòng trung
thành, trong đó mỗi diễn giả đăng đàn khẳng định sự ủng hộ của mình bằng cách
chứng thực hai văn bản: một bài phát biểu mà Đặng đã đọc vào ngày 9 tháng 6 để
bày tỏ lòng biết ơn đối với những đoàn quân đã thực hiện cuộc đàn áp ở Quảng
trường Thiên An Môn và một bản báo cáo do đối thủ kịch liệt Triệu Tử Dương, Thủ
tướng Li Peng (Lý Bằng), soạn thảo. nêu chi tiết những lỗi lầm của Triệu Tử
Dương khi giải quyết khủng hoảng. (Hai văn bản này đã được công bố từ lâu.)
Không rõ chính xác những ai đã tham dự cuộc họp của
Bộ Chính trị. Nhưng ít nhất 17 người đã phát biểu, và mỗi người đèu bắt đầu nhận
xét của mình bằng những từ “Tôi hoàn toàn ủng hộ,” bài
phát biểu của Đặng Tiểu Bình và bản báo cáo của Lý Bằng. Tất cả đều đồng ý rằng
cuộc biểu tình của sinh viên đã bắt đầu như một sự ‘xáo trộn’ (thường được dịch
là ‘hỗn loạn’). Họ đồng ý rằng chỉ khi những người biểu tình chống quân đội tiến
vào Bắc Kinh vào ngày 2 tháng 6 thì tình hình mới biến thành một cuộc “bạo loạn
phản cách mạng” buộc phải dẹp tan bằng vũ lực. Mỗi bài phát biểu đều được bổ
túc bằng những hiểu biết cá nhân, để diễn giả thể hiện lòng chân thành ủng hộ Đặng
Tiểu Bình. Qua nghi lễ xác định lòng trung thành này, đảng cộng sản đang chia rẽ
đã tìm cách sang trang và xác lập lại quyền kiểm soát đối với một xã hội u buốn.
Khi phân tích lý do trước nhất tại sao lại có ‘sự
xáo trộn’ xảy ra và tại sao nó lại trở thành một cuộc bạo loạn, các diễn giả đã
tiết lộ một sự hoang tưởng sâu sắc của họ về những kẻ thù trong và ngoài nước.
Xu Xiangqian (Từ Hướng Tiền), một nguyên soái đã nghỉ hưu trong Quân đội
Giải phóng Nhân dân, tuyên bố:
“Sự thật chứng minh rằng sự hỗn loạn hồi tháng trước
và hơn thế nữa, cuối cùng đã trở thành một cuộc bạo loạn phản cách mạng, là kết
quả của sự liên kết của các lực lượng phản cách mạng trong và ngoài nước, kết
quả của sự thăng hoa lâu năm của việc tự do hóa tư sản. . . . Mục tiêu của họ
là một kế hoạch điên rồ nhằm lật đổ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc,
và đánh sập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để thiết lập một nền cộng hòa tiểu
tư sản có thể là nước chống cộng, chống xã hội, và hoàn tất nghĩa vụ chư hầu
cho các cường quốc phương Tây.”
Từ Hướng Tiền. Nguồn: china news today
Peng Zhen (Bành Chân), cựu
chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội Nhân dân, đã lặp lại những suy nghĩ
đó:
“Trong một khoảng thời gian, có một nhóm rất nhỏ, những
người kiên quyết thúc đẩy tự do hóa tiểu tư sản đã hợp tác với các thế lực thù
địch nước ngoài để kêu gọi sửa đổi hiến pháp của chúng ta, âm mưu phá hủy Bốn
Nguyên tắc cơ bản [của Đặng Tiểu Bình để duy trì chủ nghĩa xã hội và sự cai trị
của Đảng Cộng sản] phá đổ nền tảng của nước ta; họ âm mưu thay đổi. . . hệ thống
chính trị cơ bản của đất nước chúng ta và thúc đẩy thay thế nó bằng hệ thống
tam quyền phân lập theo kiểu Mỹ; họ âm mưu thay đổi chế độ dân chủ tập trung của
nước Cộng hòa Nhân dân chúng ta do giai cấp công nhân lãnh đạo và dựa trên liên
minh công nông để trở thành một nhà nước độc tài tư bản hoàn toàn tây phương
hóa.”
Bành Chân. Nguồn: Amazon.com
Bốn Nguyên tắc cơ bản
trong con đường cơ bản của Đảng trong giai đoạn đầu xã hội chủ nghĩa của Đặng
Tiểu Bình :
[1. Tất tu kiên trì xã hội chủ nghĩa đạo lộ (duy trì
con đường chủ nghĩa xã hội)
2. Tất tu kiên trì nhân dân dân chủ chuyên chính
(duy trì chuyên chính dân chủ nhân dân)
3. Tất tu kiên trì Trung Quốc Cộng sản Đảng đích
lãnh đạo (duy trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc)
4. Tất tu kiên trì Mã Khắc Tư – Liệt Ninh chủ nghĩa,
Mao Trạch Đông tư tưởng (duy trì chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông)]
Những người khác đưa ra một
điểm thậm chí còn chi tiết hơn về chủ đề này, gợi lên những ngày đầu của Chiến
tranh Lạnh để cảnh cáo về sự lật đổ của Mỹ. Tướng Song Renqiong (Tống Nhậm
Cùng), Phó Chủ tịch Ủy ban Tư vấn Trung ương của đảng nói,
“Bốn mươi năm trước, [Ngoại
trưởng Hoa Kỳ John Foster] Dulles nói rằng hy vọng cho sự phục hồi [của chủ
nghĩa tư bản] ở Trung Quốc sẽ đến ở hế hệ thứ ba hoặc thứ tư [sau khi Trung Hoa
trở thành nước cộng sản]. Nay, tình trạng ý thức hệ chính trị trong một
phần giới trẻ thật đáng lo ngại. Chúng ta không thể để dự đoán của Dulles trở
thành sự thật.”
Con dê tế thần
Nhiều diễn giả cho rằng sự
thối rữa về ý thức hệ đã mọc rễ từ thời Hồ Diệu Bang, Tổng bí thư đảng cộng sản
trước Triệu Tử Dương, từ năm 1982 đến 1987, khi chính sách cải cách của Đặng Định
bắt đầu mở cửa cho ngoại thương và đầu tư, doanh nghiệp tư nhân và các yếu tố của
thị trường tự do phát triển. Cùng với những cải cách này, Trung Quốc đã chứng
kiến sự xâm nhập của một luồng tư tưởng thân phương Tây trong giới
nhà báo, nhà văn, học giả, sinh viên, tầng lớp doanh nhân tư nhân mới nổi và
ngay cả công chúng nói chung. Phe bảo thủ đã dựa vào họ Đặng để loại bỏ Hồ Diệu
Bang khỏi ghế quyến lực đã đổ lỗi cho họ Hồ đã không ngăn chận được khuynh hướng
này. Họ đã hy vọng rằng Triểu Tử Dương sẽ khá hơn. Nhưng rồi họ cũng buộc tội
Triệu Tử Dương đã không chú ý đủ đến kỷ luật ý thức hệ, và làm đảng mất khả
năng kiểm soát dư luận.
Cựu lãnh đạo đảng Cộng sản Zhao Ziyang (Triệu Tử
Dương) trong khu vườn của nhà ông ở trung tâm Bắc Kinh, Trung Quốc, tháng 6 năm
1998.Ảnh: Reuters File Photo
Các diễn giả tại cuộc họp
mở rộng của Bộ Chính trị năm 1989 tin rằng hầu hết những người tham gia biểu
tình đều sai lầm nhưng không phải là thù địch của chế độ. Một người nói, họ đã
bị một số rất nhỏ những kẻ xấu thao túng. Song Ping (Tống Bình), một chuyên
viên hoạch định kinh tế và là thành viên Bộ Chính trị, thậm chí còn cho rằng
Triệu Tử Dương và các đồng minh trong phe đổi mới đã ấp ủ một âm mưu bất chính
để chia rẽ đảng, lật đổ họ Đặng và dân chủ hóa Trung Quốc. Một số diễn giả khác
ủng hộ quan điểm này mà không đưa ra bằng chứng.
Các diễn giả cũng đã lên
tiếng chống lại kẻ ngoại thù mà họ cáo buộc đã thông đồng để làm cuộc khủng hoảng
trầm trọng thêm. Theo họ Tống,
“Trong phong trào sinh viên, Hoa Kỳ đã nhúng tay
vào, bằng nhiều cách. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ loan truyền tin đồn và xúi giục mỗi
ngày, cố gắng làm cho Trung Quốc hỗn loạn.”
Tống Bình. Nguồn:Alchetron
Phó chủ tịch Wang Zhen
(Vương Chấn) bày tỏ quan điểm chung của nhiều người, sự can thiệp của
Washington chỉ là hành động mới nhất trong âm mưu kéo dài hàng chục năm nhằm lật
đổ chủ nghĩa cộng sản.
“Sau Cách mạng Tháng Mười, 14 đế quốc đã can thiệp
quân sự vào chế độ Xô Viết mới thành hình, và Hitler tấn công vào năm 1941. Sau
Thế chiến II, đế quốc Mỹ ủng hộ Tưởng Giới Thạch trong Nội chiến Trung Quốc và
sau đó xâm chiếm Đại Hàn và Việt Nam. Nay, họ muốn đạt được mục tiêu của mình một
cách dễ dàng, bằng cách dùng “diễn biến hòa bình”. . . mua chuộc người bằng tiền,
lật đổ văn hóa và ý thức hệ, gửi điệp viên, đánh cắp thông tin tình báo, tung
tin đồn, kích thích hỗn loạn, hỗ trợ các thế lực thù địch nội bộ của chúng ta,
họ dùng đủ mọi cách trừ việc trực tiếp xâm lăng.”
Vương Chấn. Nguồn: Wikipedia
Bằng cách bôi nhọ những
người đối lập trong nước và phóng đại vai trò của các lực lượng nước ngoài, phe
bảo thủ thắng thế đã tiết lộ sự mù quáng của họ đối với các vấn đề thực sự ảnh
hưởng đến chế độ của họ. Yếu tố chính là sự chán ghét do sự kiểm soát chính trị
tàn bạo của đảng cộng sản tạo ra trong khối sinh viên sinh, trí thức và tầng lớp
trung lưu đang trỗi dậy. Nhưng họ lại đổ lỗi cho sự đổi mới. Phe bảo thủ trong
Đảng hiện đang thắng thế vẫn lo ngại về các chính sách của họ Đặng, như Triệu Tử
Dương đã thuật lại trong hồi ký viết trong bí mật và phát hành sau khi ông đã
chết, “Tù nhân Nhà nước”. Ông đã đấu tranh với phe bảo thủ trong suốt nhiệm kỳ
Thủ tướng (từ 1980 đến 1987), khi ông giữ vai trò là nhân vật chính thực hiện tầm
nhìn của Đặng Tiểu Bình, và Đặng thường bị buộc phải thỏa hiệp giảm tham vọng của
mình để xoa dịu phe bảo thủ.
Nhóm bảo thủ đã lên án
Triệu Tử Dương tại cuộc họp của Bộ Chính trị thường làm như vậy bằng cách tấn
công các chính sách thực sự là của Đặng Tiểu Bình. Ví dụ, Vương Chấn cảnh cáo rằng
các cải cách kinh tế đang đưa Trung Quốc hội tụ với phương Tây, nhưng ông giả vờ
cho rằng những ý tưởng cải cách này là của Triệu Tử Dương chứ không phải của họ
Đặng. (Ông ấy và những người khác gọi Triệu Tử Dương là là đồng chí vì Triệu Tử
Dương vẫn còn là một đảng viên.) Vương Chấn nói,
“Chúng ta cần phải thừa nhận rằng cải cách và mở cửa
mà đồng chí Tiểu Bình đã nói khác về bản chất với những cải cách và mở cửa mà đồng
chí Triệu Tử Dương đã nói đến. Đồng chí Tiểu Bình, cải cách và mở cửa nhằm bảo
vệ chủ quyền dân tộc và tôn trọng sắc tộc, giữ vững con đường xã hội chủ nghĩa,
duy trì sự kết hợp giữa kinh tế kế hoạch và điều tiết thị trường, tiếp tục bảo
vệ tinh thần đấu tranh quết liệt và điều tiết đầu tư trực tiếp vào các ngành
công nghiệp và nông nghiệp cơ bản. Đồng chí Triệu Tử Dương cải cách và mở cửa
là để đi theo con đường tư bản, tăng tiêu thụ, tạo ra chất thải và tham nhũng.
Đồng chí chắc chắn không phải là người thực hiện chính sách cải cách và mở cửa
của đồng chí Tiểu Bình, mà là kẻ xuyên tạc và phá hủy nó.”
Vương Chấn
Các diễn giả cũng buộc tội
Họ Triệu vì đã không hỗ trợ đầy đủ cho Giải phóng Quân Nhân dân, dù họ biết vấn
đề quân sự đã hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Đặng Tiểu Bình. Thống chế Nie
Rongzhen (Niếp Vinh Trăn) bảo vệ sự tập trung quyền lực trong quân đội đối để
giữ sự ổn định của nhà nước bằng những biện luận quả quyết:
“Trong những năm gần đây, với sự nới lỏng của tình
hình quốc tế và dưới tác động của khuynh hướng tư tưởng tự do tiểu tư sản, nhận
thức của chúng ta về sự cần thiết của chế độ độc tài [nghĩa là, lực lượng vũ
trang là một sự bảo đảm cho sự ổn định cho chế độ] suy yếu đi, công tác tư tưởng
chính trị trở nên lỏng lẻo, và một số đồng chí lầm tưởng rằng quân đội không
quan trọng và đả kích nhân viên quân đội. Có một số xung đột giữa các đơn vị
quân đội và chính quyền địa phương ở những nơi họ đóng quân. Đồng thời, một số
đồng chí của chúng ta trong quân đội đã không thoải mái trong công tác và muốn
được giải ngũ, về nhà, nơi họ nghĩ rằng họ sẽ có triển vọng tốt hơn. Tất cả những
điều này vô cùng sai lầm. Tôi nghĩ rằng đến nay suy nghĩ của những đồng chí này
đã rõ ràng, nhờ vào bài học đẫm máu mà chúng ta vừa có: không thể hạ nòng súng
xuống!”
Niếp Vinh Trăn
https://enacademic.com/pictures/enwiki/77/Marshal_Nie_Rongzhen.jpg
. Nguồn:Academic
Dictionaries and Encyclopedias
Mặc dù những bất đồng về
chính sách giữa các nhân vật lãnh đạo đảng đã mở đường cho cuộc khủng hoảng
Thiên An Môn, cuộc đàn áp vũ trang đã không vạch ra được một con đường rõ ràng
trước mặt. Thật vậy, các bài phát biểu tại phiên họp mở rộng của Bộ Chính trị
đã chỉ là những khẩu hiệu sáo rỗng, với lời hiệu triệu “Củng cố
tinh thần đảng và quét sạch chủ nghĩa bè phái” để “thống nhất
quần chúng, làm sống lại tinh thần dân tộc và thúc dục lòng yêu nước.”
Vì sự thiếu thốn của tư
duy chính sách chân chính, sự đồng thuận [trong đảng] hình thành trước sự kiện
Thiên An Môn đã rất mong manh ngay từ đầu.
Các bài phát biểu của Bộ
Chính trị đã mâu thuẫn với việc ban lãnh đạo đảng thiếu các giải pháp để có thể
giải quyết các vấn đề của Trung Quốc.
Vài ngày sau cuộc họp của
Bộ Chính trị, đảng cộng sản Trung Quốc mơ cuộc họp với 175 người của Ban Chấp
hành Trung ương, cùng với các thành viên thay thế, thành viên của Ủy ban Cố vấn
Trung ương, và các quan sát viên cao cấp, cho Hội nghị Trung ương khóa 13 của
Ban Chấp hành Trung ương khóa 13. Ngườu kế nhiệm Triệu Tử Duong trong vị trí Tổng
bí thư là Jiang Zemin (Giang Trạch Dân) đã đọc một bài phát biểu, trong đó ông
cố gắng xóa mờ sự khác biệt giữa Đặng và những người bảo thủ. Ông tuyên bố rằng
Đặng chưa bao giờ muốn nới lỏng kỷ luật tư tưởng:
“Từ năm 1979 đến 1989, đồng chí Tiểu Bình đã nhiều lần
khẳng định cần phải mở rộng giáo dục và đấu tranh để ủng hộ vững chắc Bốn
nguyên tắc cơ bản và chống lại tự do hóa tiểu tư sản. Nhưng những quan điểm
quan trọng này của đồng chí Tiểu Bình đã không được thực hiện triệt để.”
Giang Trạch Dân
Giang Trạch Dân cam kết sẽ
thống nhất đảng và xin lĩnh hội những cố vấn của nhóm “cách mạng lão thành.”
Dù đã nghe lời hứa của
Giang Trạch Dân, cựu thành viên Bộ Chính trị Bo Yibo (Bạc Nhất Ba) lo lắng rằng
giới lãnh đạo mới sẽ tiếp tục gặp phải sự phản đối.
“Chúng tôi không thể để sự chia rẽ nội bộ xảy một lần
nũa. Theo quan điểm của tôi, lịch sử sẽ không cho phép chúng ta trải qua [một
cuộc thanh trừng lãnh đạo] một lần nữa.”
Bạc Nhất Ba
https://images.findagrave.com/photos250/photos/2007/32/17764878_117042640164.jpg . Nguồn: Find
A Grave
Sau năm 1989, những người
bảo thủ vẫn thăng hoa ba năm sau đó, cho đến khi Đặng , đã già, thực hiện “chuyến
đi Nam” gây chú ý năm 1992. Bằng cách đến thăm các “đặc khu kinh tế” (nơi chính
phủ cho phép các doanh nghiệp có đầu tư ngoại quốc, hay định hướng xuất khẩu hoạt
động) và đưa ra các tuyên bố như “bất cứ ai chống lại cải cách đều phải
rời từ chức”, Đặng Tiểu Bình buộc Giang Trạch Dân và các dồng chí phải tiếp
tục tự do hóa kinh tế.
Đây là hành động chính trị
cuối cùng của Đặng Tiểu Bình. Nó đã giúp Trung Quốc phát triểnkinh tế nhanh
chóng nhưng vẫn không làm gì để hồi sinh sự tự do hóa chính trị tại đây.
Niềm tin cốt lõi
Sau khi lên nắm quyền lực
sau cuộc khủng hoảng Thiên An Môn, Giang Trạch Dân ngồi hơn chục năm ở vai trò
Tổng bí thư, từ năm 1989 đến 2002. Nhưng giống như Triệu Tử Dương, ông cũng
chưa bao giờ có thể giành được quyền hoàn toàn kiểm soát đảng. Thật vậy, không
ai trong số những người kế vị Triệu Tử Dương có thể làm như vậy cho đến khi Tập
Cận Bình xuât hiện. Thất bại của Triệu Tử Dương được mổ xẻ tại phiên họp mở rộng
của Bộ Chính trị, một cách nào đó, đã tiết lộ lý do tại sao hệ thống Trung Quốc
có khuynh hướng về chế dộ một người cai trị [không khác gì thời phong kiến], bất
chấp gía phải trả và rủi ro của chế độ tập trung quyền lực.
Những lời của Chủ tịch
Yang Shangkun (Dương Thượng Côn) đặc biệt thú vị vì ông là cánh tay mặt và đại
diện cá nhân đáng tin cậy nhất của Đặng Tiểu Bình, và trong khả năng đó, ông đã
tham gia với tư cách là người quan sát và hòa giải trong một loạt các cuộc họp
của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị trong cuộc khủng hoảng Thiên An Môn. Ông cũng
từng là sứ giả của Đặng Tiểu Bình trong quân đội trong cuộc đàn áp. Dương Thượng
Côn lên án Triệu Tử Dương đã không thể tự mình trở thành người lãnh đạo mà sau
này được gọi là lãnh đạo “hạch tâm” (hexin, 核心) – vì đã không xây dựng được sự đồng thuận hợp
tác giữa tất cả các nhân vật lãnh đạo cao cấp và những người khác đã nghỉ hưu,
mặc dù nhiều người trong số đó, về cơ bản không đồng ý với ông ta. Dương Thượng
Côn phàn nàn là Triệu Tử Dương,
“không chấp nhận những ý kiến của người khác, và ông ta cũng không tự phê bình
nghiêm túc. Ngược lại, ông giữ những đảng viên khác ở vòng ngoài và tự mình làm
mọi việc, điều này đã đẩy công việc của Ban Thường vụ vào tình trạng chỉ có sự
phân công lao động thực dụng chứ không phải là sự lãnh đạo tập thể. Đây là một
vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức tối cao, nguyên tắc lãnh đạo tập thể, của
đảng.”
Dương Thượng Côn
https://vignette.wikia.nocookie.net/totalwar-ar/images/6/61/Yang_Shangkun.jpg/revision/latest?cb=20180420032656 Nguồn: Historica
Wiki
Thiết lập sự lãnh đạo tập
thể hiệu quả nghĩa là gì? Bành Chân, cựu chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Nhân dân Quốc gia, giải thích lãnh đạo tập thể như một lý tưởng:
“Trong đảng,. . . chúng ta nên và phải thực thi dân
chủ hoàn chỉnh, chân thực, dân chủ cao cấp. Trong các cuộc thảo luận về vấn đề,
mọi ý kiến đều có thể được nêu
lên, bất cứ ai đúng nên được tuân theo, mọi người đều bình đẳng trước sự thật.
Cấm triệt để việc chỉ báo cáo tin tốt và không báo tin xấu, từ chối lắng nghe
những ý kiến khác nhau. Nếu một
cuộc thảo luận không dẫn đến sự đồng ý hoàn toàn, chúng ta phải làm gì? Thiểu số
phải theo đa số. Chỉ bằng cách này mới có thể được duy trì được Bốn Nguyên tắc
cơ bản, toàn thể đảng thống nhất, nhân dân thống nhất.”
Bành Chân
Những kẻ gièm pha Triệu Tử
Dương than phiến thay vì thuyết phục họ thie họ Triệu qua sang tìn sự ủng hộ của
Đặng Tiểu Bình.
Wan Li (Vạn Lý), Chủ tịch
Ủy ban thường vụ Quốc hội Nhân dân. Zhao, các nhà phê bình của ông đã đồng ý,
trong một phiên họp vào tháng 12 năm 1988, đã than phiền Triệu Tử Dương không đếm
xỉa đến những phê bình chỉ trích.
“Tệ hơn nữa đồng chí ấy chạy đi báo cáo với đồng chí
Tiểu Bình về những gì [những người chỉ trích] đã nói, và sau đó. . . khoe
khoang là đồng chí Tiểu Bình ủng hộ đồng chí ấy. Có phải điều này như thể dùng
đồng chí Tiểu Bình để đàn áp dân chủ hay không?”
Vạn Lý
http://ui.sina.com/2015/0716/U47P5029DT20150716072633.jpg Nguồn: Sina English
Không thể giữ quân bình
Những hình ảnh sống động
miêu ta đời số ở đỉnh cao quyền lực đầy rẫy chủ nghĩa bè phái và phản bội đâm
sau lưng nhau đã chứng minh tình trạng tiến thoái lưỡng nan do học thuyết lãnh
đạo của đảng tạo ra. Nhân vật lãnh đạo phải giải quyết vấn đề một cách dứt
khoát đồng thời chấp nhận, và ngay cả yêu cầu có lời chỉ trích và bất đồng
chính kiến của một loạt các đảng viên lão thành và đối thủ,
vì sự phức tạp của các vấn đề Trung Quốc, hẳn phải có những ý kiến khác nhau về
những việc cần làm. Mao Trạch Đông đã không làm như vậy (ông đã thanh trừng một
loạt các đối thủ), và Đặng cũng không làm thế; ông tranh luận với những người đồng
quyền lực thường xuyên buộc ông phải kiềm chế các ý tưởng cải cách của mình. Đặng
nghĩ ra ý tưởng về một nhà lãnh đạo cốt lõi sau cuộc khủng hoảng Thiên An Môn để
gói gọn nhu cầu này, phản ảnh sự lo lắng của ông ta và các nhân vật lãnh đạo
cao cấp khác, lo lắng rằng vấn đề không thể cùng nhau làm việc sẽ làm tê liệt
nhóm lãnh đạp để có thể đi đến quyết định, như đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng
gần đây.
Mặc dù nhân vận lãnh đạo
hậu Thiên An Môn đầu tiên, Giang Trạch Dân, tự gắn cái nhãn lãnh đạo cốt lõi
cho mình, nhưng ông không thiết lập được sự thống trị thực sự đối với hệ thống,
và người kế nhiệm ông, Hu Jintao (Hồ Cẩm Đào), thậm chí cũng không nhận nhãn hiệu
này. Nhưng Tập Cận Bình đã biến mình thành một lãnh đạo cốt lõi thực sự và tự
trao cho mình nhãn hiệu này vào năm 2016, sau bốn năm tại vị. Tập Cận Bình đã đạt
được vị trí đó bằng cách thanh trừng tất cả những ai có thể là đối thủ, cơ cấu
tay chân trung thành với Tập vào Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, tạo ra một
bầu không khí sợ hãi trong đảng và quân đội bằng một chiến dịch chống tham
nhũng nhắm vào đối thủ của ông ta, và nhanh chóng tiêu diệt bất kỳ ai có dấu hiệu
bất đồng từ luật sư, những người ủng hộ nữ quyền, đến những người vận động môi
trường và thường dân. Giống như thiên nhiên ghê tởm một khoảng chân không, hệ
thống chính trị Trung Quốc ghét cay ghét đắng nền dân chủ chân chính và ép giới
lãnh đạo Trung Quốc hướng tới chế độ độc tài.
Hình : Tại một hội thảo
ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, tháng 6 năm 2018. Ảnh:
China Stringer Network / Reuters
Tuy nhiên, lãnh đạo tập
trung đã không giải quyết được mâu thuẫn không thay đồi giữa đổi mới và quyền lực
đã gây ra cuộc khủng hoảng Thiên An Môn 30 năm trước. Trung Quốc càng theo đuổi
sự giàu có và quyền lực bằng sự hiện đại hóa trong nước và tham gia vào nền
kinh tế toàn cầu, thì nhiều sinh viên, trí thức và tầng lớp trung lưu đang trỗi
dậy càng không muốn tuân theo một ý thức hệ của những năm 1950, và giới
tinh hoa bảo thủ trong đảng càng phản ứng với sự thay đổi xã hội bằng cách kêu
gọi siết chặt kỷ luật trong đảng và sự quy thuận trong xã hội hơn nữa. Sự căng
thẳng đó chỉ có thể trở nên tồi tệ hơn nữa khi Tập Cận Bình tăng thu nhập, mở rộng
giáo dục đại học, di dân đến các thành phố và khuyến khích tiêu dùng.
Trung Quốc hiện có một tầng lớp trung lưu thịnh vượng, đông đảo, im lặng vì phải
cẩn thận một cách thực tế nhưng khao khát tự do hơn. Tập Cận Bình đã trả lời bằng
cách cách tăng cường sự kìm kẹp của nhà nước trên mạng Internet và các nguồn
truyền thông khác, tăng cường tuyên truyền, hạn chế tự do học thuật, mở rộng kiểm
soát, đàn áp, đối xử bạo ngược với các dân tộc thiểu số ở miền tây Trung Quốc,
và bắt giữ luật sư, những người vận động nữ quyền và những người hoạt động
khác dám thúc đây một chế độ pháp trị.
Nguyên soái Niếp Vinh
Trăn đã đúng khi nói trong phiên họp của Bộ Chính trị hậu Thiên An Môn rằng,
“Cuộc bạo loạn phản cách mạng đã được bình định,
nhưng khuynh hướng tự do hóa tiểu tư sản còn lâu mới bị tiêu diệt. Cuộc chiến
chiếm lĩnh mặt trận ý thức hệ sẽ vẫn là một cuộc chiến nhiều cay đắng. Chúng ta
phải quyết tâm chiến đấu một trận chiến kéo dài; Chúng ta phải chuẩn bị cho nhiều
thế hệ để chiến đấu trong nhiều thập kỷ!”
Niếp Vinh Trăn
Đảng cộng sản Trung Quốc
đã thực sự chuẩn bị, và trận chiến nổ ra vào ngày hôm nay, trong khi Tập Cận
Bình dựa vào sức mạnh nắm trọn trong tay để ngăn chặn sự chia rẽ trong đảng và phe
đối lập trong xã hội. Cho đến nay, Tập Cận Bình dường như đã thành công: sự
phát triển kinh tế vẫn tiếp tục, và ngày nay một phong trào bất đồng chính kiến
quy mô như sự kiện Thiên An Môn dường như khó có thể tưởng tượng sẽ xẩy ra được.
Nhưng hệ thống lãnh đạo của
Tập Cận Bình cũng tạo ra những nguy hiểm riêng của nó. Trong đảng, hiện đang có
nhiều lời cằn nhằn âm ỉ về nhu cầu trung thành với một ý thức hệ trống không, với
lệnh cấm không được thảo luận về chính sách. Bên ngoài xã hội, cường độ kiểm
soát tạo thành lực lượng tâm lý kháng cự có thể bùng nổ với sức mạnh đáng kể nếu
chế độ chùn bước, trong hiệu suất hoặc ý chí nắm vững quyền lực.
Hơn thế nữa, Tập Cận Bình
đã đặt mình vào một vị trí quyền lực không thể tấn công được, không có đối
thủ và không giới hạn thời gian cai trị – năm 2018, Xi đã đẩy mạnh việc
xóa bỏ giới hạn trong nhiệm kỳ Chủ tịch nước – đã tạo điều kiện gây khủng hoảng
cho sự kế nhiệm trong tương lai. Khi có câu hỏi về sự kế thừa, vì nó phải có, ở
dạng này hay dạng khác, theo hiến pháp Trung Quốc, bất cứ ai đang giữ chức Phó
Chủ tịch sẽ kế vị Tập Cận Bình làm Chủ tịch nước. Nhưng hoàn toàn không có gì
ghi lại trên văn bản, và cũng không có quy tắc hay thông lệ không chính thức
nào, nói rằng ai sẽ kế vị Tập Cận Bình trong vị trí Tổng bí thư của đảng hoặc
là Chủ tịch của Quân ủy Trung ương, những vị trí nhiều quyền lực hơn so với Chủ
tịch nước. Không có bằng chứng nào cho thấy Tập đã chỉ định người kế vị, như
Mao đã làm, và điều này có thể là do kinh nghiệm thời Mao, cho thấy người kế
nhiệm được chỉ định có thể trở thành một đối thủ đang đợi trong cánh gà sân khấu
chính trị. Mặt khác, việc không công bố người thừa kế cũng có vấn đề
không kém nếu muốn thấy sự chuyển đổi quyền lực suôn sẻ.
Nếu Đặng đứng về phía Triệu
Tử Duong 30 năm trước và chọn một phản ứng ít bạo lực hơn đối với cuộc biểu
tình ở Thiên An Môn, Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày nay rất có thể vẫn nắm giữ
quyền lực trong tay, bởi vì không có gì Triệu Tử Dương tuyên bố trong cuộc khủng
hoảng, hoặc trong một số ấn phẩm phản ảnh quan điểm của ông trong thời gian bị
quản thúc tại gia, cho thấy rằng ông muốn Trung Quốc trở thành một chế độ đa đảng
cạnh tranh ở chính trường. Triệu Tử Dương tuyên bố rằng đảng cầm quyền có thể
tin tưởng người dân và do đó có thể cho phép báo chí đưa tin sự thật (hoặc ít
nhất là như vậy), có thể tiến hành đối thoại với các sinh viên và các lực lượng
đội lập khác, có thể nới lỏng những ràng buộc đối với các tổ chức xã hội dân sự,
có thể làm cho tòa án độc lập hơn, và có thể trao thêm quyền lực cho một cơ
quan lập pháp dân cử. Ông nghĩ rằng những thay đổi đó sẽ làm cho đảng trở nên hợp
pháp nhiều hơn,chứ không giảm đi và sẽ làm cho chế độ độc đảng ổn định hơn.
Nhưng Trung Quốc đã đi một con đường khác.
Ngày nay, trên bề mặt
Trung Quốc có một chế độ mạnh hơn so với bất kỳ thời đại nào kể từ triều đại
Mao Trạch Đông, nhưng nó cũng dễ vỡ hơn.
© 2019 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn
và đọc “Thể lệ trích
đăng lại bài từ DCVOnline.net”
*
Nguồn: Inside the Secret Meeting That Changed China | The New Tiananmen
Paper | Tiananmen at 30 s – How 1989 Shapes China Today | Andrew J. Nathan |
Foreign Affairs | May 30, 2019.
No comments:
Post a Comment