Ryan Mitchell
- Foreign
Affairs
Huỳnh
Hoa dịch
Viet-studies
– 8/12/2017
Ngày 25/10/2017 khi bảy người mặc âu phục đen bước
lên sân khấu đại lễ đường nhân dân ở Bắc Kinh để ra mắt các thành viên ủy ban
thường vụ bộ chính trị đảng Cộng sản Trung Quốc, chỉ có một khuôn mặt gây ngạc
nhiên. Đó là Vương Hỗ Ninh (Wang Huning) – một lý thuyết gia
lâu năm của đảng, một cựu giáo sư về chính trị quốc tế trường đại học Phúc
Đán (Fudan) ở Thượng Hải. Ít người dự đoán được ông Vương sẽ
thăng tiến tới tầng cao nhất của đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng bây giờ, vị học
giả có thời ẩn dật, có tiếng trầm lặng và thận trọng, sẽ có uy quyền về ý thức
hệ chỉ sau chủ tịch Tập Cận Bình.
Việc bố trí ông Vương vào ủy ban thường vụ bộ chính
trị là một sự xa rời đáng ngạc nhiên với thực tế vài thập niên gần đây. Theo
truyền thống, ủy viên ủy ban thường vụ phải được chọn trong các ủy viên bộ
chính trị nổi bật, có kinh nghiệm làm bí thư các tỉnh hoặc thành phố ngang cấp
tỉnh. Ông Vương, trái lại, chỉ từ Văn phòng nghiên cứu chính sách trung ương,
nơi ông là giám đốc lâu năm, theo dõi sự phát triển nền tảng ý thức hệ của đảng
Cộng sản Trung Quốc. Trước đây chỉ có một trường hợp duy nhất mà một lý thuyết
gia như ông Vương được đưa vào ủy ban thường vụ là vào thời kỳ khởi xướng cuộc
Cách mạng Văn hóa năm 1966, khi ông Mao Trạch Đông đề bạt thư ký riêng của mình
là Trần Bá Đạt (Chen Boda).
Tình hình hiện nay của Trung Quốc tất nhiên có nhiều
sự khác biệt căn bản so với thập niên 1960. Nhưng cũng có thể có một sự tương đồng
đầy ý nghĩa: đó là những sự thay đổi trong vị thế của quốc gia và những quy tắc
của chính trị tinh hoa dường như lại một lần nữa đưa đảng Cộng sản Trung Quốc tới
điểm chuyển hóa. Sau khi trải qua một cao trào gia tăng uy quyền cho đến khi được
tấn phong làm lãnh tụ cốt lõi của đảng, gần đây ông Tập Cận Bình đã khởi động
nhiệm kỳ tổng bí thư thứ hai của mình bằng việc công bố học thuyết về “Kỷ
nguyên mới” của chủ nghĩa xã hội mang đặc điểm Trung Quốc, cùng với nhu cầu bảo
đảm sự ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế chất lượng cao trong khi gia tăng
toàn diện sức mạnh của đất nước. Cũng trong thời gian này, ông Tập nhiều lần nhấn
mạnh tới mối nguy hiểm sống còn theo kiểu Xô viết mà đảng của ông sẽ rơi vào nếu
như đảng không thúc đẩy được một cách hiệu quả niềm tin và sự tin cậy trong người
dân Trung Quốc bình thường.
Nhiều chính sách của ông Tập – từ “Giấc mộng Trung
Hoa” nhằm thống nhất khát vọng của người dân thường với mục tiêu của nhà nước
thành một, cho tới công cuộc triệt hạ tham nhũng quyết liệt và quy chế “Bốn Tự
Tin” mà mỗi cán bộ đảng phải thể hiện – đều nhắm vào công cuộc phục hồi và biện
minh cho quyền lực của đảng Cộng sản. Khi đảng ra tay củng cố quyền lực thì sự
thăng tiến của ông Vương Hỗ Ninh có thể nói gì về con đường tiến lên của Trung
Quốc trong “kỷ nguyên mới” của ông Tập?
TÌM
KIẾM TRẬT TỰ
Trong những năm tháng theo sau cái chết của ông Mao
năm 1976, khi Cách mạng Văn hóa dần dần nhường chỗ cho thời kỳ cải cách, có vô
số người dân Trung Quốc bắt đầu theo đuổi những giấc mơ đã bị trì hoãn trong suốt
một thập niên đấu tranh chính trị. Vương dùng những năm tháng này để đọc những
trước tác chính trị có tuổi đời hàng thế kỷ về cái ác trong bản tính của con
người, về nguồn gốc của nhà nước, và nhu cầu phải có một lãnh tụ đầy quyền năng
để xử lý các xung đột xã hội.
Năm 1978, sau khi tốt nghiệp cử nhân tiếng Pháp,
Vương vào trường đại học Phúc Đán tiếp tục học và lấy bằng thạc sĩ về chính trị
quốc tế năm 1981. Luận văn tốt nghiệp của ông, về quan niệm chủ quyền quốc gia
trong tư tưởng phương Tây, đã lần theo dòng phát triển ý tưởng về nhà nước có
chủ quyền hiện đại, từ sự miêu tả đầy đủ đầu tiên trong tác phẩm của Jean Bodin
– lý thuyết gia chính trị Pháp thế kỷ 16, người đề xuất một quan niệm về “chủ
quyền như là quyền lực tuyệt đối và liên tục của một cộng đồng lợi ích chung”,
cho đến những phân tích tỉ mỉ quan niệm này trong các thời kỳ sau, rồi đến sự
phủ nhận nó trong thế kỷ 20. Hơn 15 năm sau đó, trong các sách vở và bài báo của
mình, Vương nhiều lần quay lại chủ đề về chủ quyền khi ông leo dần lên các nấc
thang nghề nghiệp để đến năm 1989, ông trở thành giám đốc chương trình chính trị
quốc tế mà ông đã theo học.
Ý kiến căn bản của Vương về chủ quyền thống nhất ở
nhiều khía cạnh quan trọng với quan điểm của các nhà lý luận phương Tây. Đối với
Vương, chủ quyền đòi hỏi quyền lực chính trị phải có khả năng thực thi sự kiểm
soát hành chính thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ mà không có mối đe dọa từ bên
ngoài hoặc sự phá hoại từ bên trong. Jean Bodin là người đầu tiên đề ra một lý
thuyết chính trị theo đó chỉ có nhà nước mới được nắm giữ thẩm quyền này, loại
trừ mọi thế lực chính trị, tôn giáo hoặc pháp lý khác. Điểm cốt lõi của quan niệm
này là giả thuyết rằng chủ quyền là bất khả phân chia; cho dù một chính sách hoặc
một quy tắc bất kỳ nào đó có thể bị đem ra tranh cãi thì chính vai trò của chủ
quyền là chấm dứt vụ tranh cãi ấy. Như Bodin từng viết trong cuốn sách “Six
Books of the Commonwealth” (Sáu cuốn sách về cộng đồng thịnh vượng) của
ông: “Cũng như Chúa, Đấng Tối thượng, không thể làm ra một đức Chúa bình đẳng với
chính Ngài bởi vì Ngài là vô tận, và theo quy luật tự nhiên, hai vô tận không
thể cùng tồn tại, vì thế chúng ta có thể nói rằng đấng quân vương mà chúng ta
coi là hình ảnh của Chúa không thể làm ra một thần dân bình đẳng với chính ngài
mà không hủy hoại quyền lực của ngài được”.
Đối với Vương, sự phát triển lịch sử của những ý tưởng
như vậy là đặc biệt quan trọng bởi vì nó cho thấy rằng trong buổi đầu của châu
Âu hiện đại, cũng như ở Trung Quốc thế kỷ 20, nhà nước hiện đại đã phải đấu
tranh để nổi lên giữa tình trạng hỗn loạn gây nên bởi những thế lực phong kiến,
những cuộc chia cắt lãnh thổ và xã hội. Những lý thuyết gia vĩ đại của châu Âu
về chủ quyền quốc gia, bao gồm cả Bodin, Thomas Hobbles và Machiavelli (mà
Vương coi như người đấu tranh để một nước Ý bị chia rẽ thành “một nắm cát lỏng
lẻo trong lòng bàn tay” được thống nhất trở lại, giống như Trung Quốc sau này),
đã từng đi trước thời đại của mình khi nhìn ra nhu cầu phải có một hình thức tổ
chức chính trị sao cho có thể cung cấp sự thống nhất và trật tự, thoát khỏi sự
hỗn mang và yếu kém. Ở Trung Quốc hiện đại cũng như ở nước Ý thời Phục hưng,
khuynh hướng bẩm sinh của con người hướng tới chiến tranh và cách mạng, có
nghĩa là chỉ có sự tuân phục chung trước một quyền uy tối cao mới có thể tạo
thành nền tảng của sức mạnh và sự độc lập của quốc gia.
Tất nhiên những ý tưởng như vậy có một ý nghĩa đặc
biệt ở Trung Quốc vào cuối thập niên 1970, sau khi những thử nghiệm thảm khốc của
cuộc Cách mạng Văn hóa đã làm suy yếu nhà nước và đặt nghi vấn về những lý lẽ
biện minh về ý thức hệ cho quyền cai trị của nhà nước. Nhưng đối với Vương, các
nhà lý luận về chủ quyền ở phương Tây thời buổi đầu vẫn có một giá trị vĩnh cửu
bởi vì họ sử dụng một cách nhìn thực tế (hoặc “duy vật”) để loại bỏ những tư tưởng
kỳ quặc trong thời đại của họ và nắm bắt được những gì mà xã hội thực sự cần
có: một nhà cai trị mạnh mẽ, có khả năng thống nhất, trung thành với nhân dân
và không chịu bất kỳ ảnh hưởng nào của tôn giáo, ngoại bang hoặc chế độ phong
kiến. Các nhà cai trị mạnh mẽ này, đến lượt họ, lại tạo ra những nền tảng của
nhà nước ổn định và độc lập sẽ tiếp tục đưa phương Tây lên tột đỉnh của sự thống
trị toàn cầu.
TRUNG
QUỐC và KẺ THÙ
Tuy nhiên sự vươn lên của phương Tây tới uy thế toàn
cầu tự nó cũng thúc đẩy nhiều sự thay đổi sâu xa hơn. Ông Vương đặc biệt giật
mình bởi một hiện tượng kỳ lạ. Tại sao, khi các quốc gia tư bản đã gần như thống
trị phần còn lại của thế giới, chúng lại dần dần quay lưng với kiểu nhà nước có
chủ quyền Westphalia (1) và hướng tới những tầm nhìn có tính phổ quát về “sự quản
trị toàn cầu” (global governance), “nhân quyền” và những thứ
tương tự? Vương lý giải hiện tượng này trong luận văn tốt nghiệp, trong bài tiểu
luận năm 1985 của ông: “On New Developments in the Modern Theory of
Sovereignty” (Về những bước phát triển mới trong lý thuyết hiện đại về
chủ quyền), cũng như trong cuốn sách ông xuất bản năm 1987 “State
Sovereignty” (Chủ quyền quốc gia) và các tác phẩm khác hồi đầu thập
niên 1990.
Vương cho rằng, không phải ngẫu nhiên mà các quốc
gia phương Tây đã phát triển một nỗi chán ghét chủ quyền quốc gia, và hướng sự
quan tâm tới các ý tưởng phổ quát luận (universalist ideas) đúng
vào thời điểm họ tìm cách củng cố quyền kiểm soát các đế quốc thuộc địa rộng lớn.
Sau cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, khi không còn đất đai để xâm chiếm
nhưng lại có hàng loạt những thuộc địa đã chiếm được, các thế lực thực dân đã
phát triển các thiết chế quốc tế mới, chẳng hạn như Hội Quốc liên (2) và những
phương thức mới để biện minh cho việc thực thi quyền kiểm soát kiểu thuộc địa
hoặc bán thuộc địa của họ trên những miền đất rộng lớn của thế giới, gồm cả một
phần nước Trung Quốc. Cũng trong thời gian này, lý tưởng về quyền dân tộc tự
quyết (3), vốn là bước tiến vĩ đại cuối cùng trong học thuyết về chủ quyền quốc
gia truyền thống, đã bị gạt ra bên lề nhằm duy trì tình trạng hiện hữu của thế
giới. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai và trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh,
các quốc gia phương Tây hàng đầu vẫn tiếp tục tìm cách hạn chế hoặc kiểm soát
tiến trình giải thực (decolonization), và thường ra tay đàn áp những
người, theo quan điểm của Vương, thật sự đại diện cho ý chí chính trị của các
dân tộc thuộc Thế giới thứ Ba. Từ quan điểm này, có thể coi những nỗ lực kiên
trì của Hoa Kỳ nhằm kiềm chế Liên bang Xô-viết là một phần trong truyền thống
lâu dài những cố gắng của phương Tây nhằm duy trì chủ quyền lên phần thế giới
ngoài phương Tây, trong khi phủ nhận quyền của các dân tộc ngoài phương Tây chống
lại sự thống trị này.
Và như vậy khi nhà khoa học chính trị Hoa Kỳ Samuel
Huntington phát triển luận đề “sự va
chạm của các nền văn minh” của ông vào đầu thập niên 1990 – cho rằng xung đột
giữa các nhóm nền văn minh lớn như Khổng giáo, Hồi giáo, thế giới phương Tây sẽ
định hình địa chính trị của thế kỷ 21 – thì ông Vương đã cố ý đưa vào ý tưởng
đó một cách diễn dịch thân thiện với đảng Cộng sản và có ảnh hưởng rộng. Theo
ông, cái được cho là những giá trị phổ quát của nền văn minh phương Tây chỉ là
những hình thức của “chủ nghĩa bành trướng văn hóa” (cultural
expansionism) được sử dụng để thâm nhập vào xã hội Trung Quốc. Chỉ có
thể chống lại sự thâm nhập này bằng một đảng Cộng sản có khả năng khẳng định vững
chắc “chủ quyền văn hóa của chính mình – “chủ quyền quốc gia về văn hóa” là
khái niệm mà Vương tiếp nhận để đề cập tới khả năng của Trung Quốc trong việc
duy trì sự độc lập về ý thức hệ và sự thống nhất chính trị chống lại sự phê
phán của thế giới bên ngoài.
Những thảm kịch như là vụ bạo lực tiếp sau những cuộc
biểu tình phản kháng ở quảng trường Thiên An Môn (Tiananmen) năm
1989, theo quan điểm của Vương, là kết quả tự nhiên của việc cho phép công dân
Trung Quốc bị mê hoặc bởi ảnh hưởng của ngoại bang đến mức xói mòn quyền uy của
nhà nước và cuối cùng đe dọa đưa Trung Quốc trở lại tình trạng “nắm cát trong
lòng bàn tay”. Như vậy cả chủ quyền quốc gia đối ngoại của Trung Quốc, hoặc là
tự do thoát khỏi vòng kiểm soát trực tiếp của phương Tây lẫn chủ quyền quốc gia
đối nội – tức khả năng của nhà nước trong việc tổ chức xã hội và ngăn ngừa xung
đột giữa các giai cấp, các nhóm lợi ích – đều phụ thuộc vào khả năng của đảng Cộng
sản trong việc xác định và áp dụng các giá trị chính trị, thậm chí cả giá trị đạo
đức, theo giới hạn của đảng, và phải được tuân thủ.
Các lý lẽ của Vương về cơ bản là phủ định, đóng
khung quanh việc ngăn chặn các điều ác tiềm tàng hơn là hướng tới một tầm nhìn
xác định nào. Và mặc dù bản thân đảng Cộng sản Trung Quốc đã gia tăng tìm cách
thâu tóm những ngôn từ hùng biện của triết học truyền thống Trung Quốc, song
các trước tác của Vương rất ít khi bộc lộ một quan niệm mang tính dân tộc vị chủng
đặc biệt nào về nhà nước. Điều cốt lõi trong tư tưởng của Vương không phải là
các đặc điểm bản chất của Trung Quốc mà thay vì vậy là năng lực của nhà nước và
của người dân mà nhà nước ấy đại diện cho quyền lợi của họ trong công cuộc
trung lập hóa mọi thế lực có thể chia rẽ và làm suy yếu khối nhân dân. Tương tự
như vậy, mặc dù những bài viết của Vương thời kỳ trước Thiên An Môn đôi khi tán
thành những cuộc cải cách ôn hòa, chúng vẫn luôn luôn đặt trong yêu cầu phục vụ
và phụ thuộc gần như hoàn toàn vào một mục đích lớn lao hơn là bảo vệ uy quyền
của nhà nước. Cuối cùng, ngay cả việc Vương áp dụng chủ nghĩa Marx cũng chỉ thường
xuyên tập trung vào việc biện minh cho sự ổn định quyền lực của đảng hơn là hướng
tới một xã hội đại đồng không tưởng, cái mà về danh nghĩa quyền lực đó phải xây
dựng được. Không một quan niệm trừu tượng nào, cho dù đó là tự do, công lý,
bình đẳng, xã hội hài hòa, lòng nhân đức Khổng giáo, thậm chí cả chủ nghĩa duy
vật biện chứng… được Vương quan tâm nhiều như là những dữ kiện trần trụi về quyền
uy, sự tuân phục và trật tự.
NGÒI
BÚT CỦA ĐẢNG
Mối bận tâm hàng đầu của Vương đối với vấn đề chủ
quyền – và nỗi hoài nghi của ông đối với cái gọi là sự xâm lấn văn hóa của
phương Tây – xuất hiện liên tục trong những bài viết của ông trong suốt thập
niên 1980 và 1990. Năm 1995, tổng bí thư Giang Trạch Dân (Jiang
Zemin) và hai cộng sự của ông ta là Tăng Khánh Hồng (Zeng
Qinghong) và Ngô Bang Quốc (Wu Bangguo) mời ông Vương
tham gia Văn phòng nghiên cứu chính sách trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc để
nghiên cứu các vấn đề ý thức hệ. Ở đó, Vương giúp thảo ra thuyết “Ba Đại diện”,
đóng góp về ý thức hệ của Giang vào cương lĩnh của đảng. Thuyết này làm rõ một
chức năng “đại diện” chính trị mới của đảng Cộng sản Trung Quốc, biện minh cho
việc kết nạp vào đảng những người thuộc tầng lớp doanh nhân mới hình thành và
người lao động chuyên nghiệp. Từ đó trở về sau, ông Vương giữ vai trò dẫn dắt
công cuộc phát triển những lý thuyết mang dấu ấn riêng của các tổng bí thư kế
tiếp nhau, gồm học thuyết “Tầm nhìn khoa học về phát triển” của tổng bí thư Hồ
Cẩm Đào và học thuyết “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội mang đặc điểm
Trung Quốc trong kỷ nguyên mới” vừa đề cập ở trên. Tập là lãnh tụ đầu tiên sau
Mao được đưa tên tuổi vào cương lĩnh chính trị của đảng, và ở ông Tập, Vương dường
như đã lần đầu tiên nhìn thấy một “đấng quân vương” mạnh mẽ – kiểu lãnh tụ mà
Machiavelli từng tìm kiếm – người có thể biến thành hiện thực toàn bộ ý tưởng của
Vương về bảo vệ chủ quyền quốc gia của Trung Quốc và chống lại phương Tây.
Sự ủng hộ mà Vương dành cho Tập sẽ được thúc đẩy mạnh
hơn nữa bởi thực tế rằng Vương dường như vươn lên vị trí hiện thời không phải bằng
uy quyền cá nhân của mình mà hầu như dựa chủ yếu vào những mưu đồ của giới
chính trị tinh hoa Trung Quốc. Đặc biệt, theo một số người đã từng làm việc gần
gũi với ba nhà lãnh đạo Trung Quốc sau ông Đặng Tiểu Bình thì Vương gần như là ủy
viên bộ chính trị duy nhất mà cả ba ông Giang, Hồ và Tập đều không coi là mối
đe dọa cho quyền lực của họ, và do đó là vô hại. Các nhà lý luận của đảng trước
đây, gọi là những ngòi bút của đảng (biganzi), từng leo lên tới các
vị trí đầy quyền lực – kể cả Trần Bá Đạt cũng như những người hoài nghi cải
cách sau này như Hồ Kiều Mô (Hu Qiaomu) và Đặng Lập Quần (Deng
Liqun) – cũng từng lên voi hoặc xuống chó tương tự tùy vào sự thay đổi
trong giới tinh hoa bảo trợ họ. Nhận thức của Vương về những tiền lệ này cho
ông có thêm lý do để bảo đảm rằng những đóng góp về ý thức hệ của Vương sẽ tiếp
tục biện minh cho quyền lực không thể bị phản đối của đảng và của lãnh tụ Tập.
Thật vậy, từ tháng 10 năm ngoái, Vương đã công khai kêu gọi các nhà báo phải
“kiên định đi theo đảng” và đã bình luận với các nhà lãnh đạo các công ty công
nghệ Trung Quốc và phương Tây về nhu cầu bảo vệ “chủ quyền trên mạng
internet” (cyber sovereignty) của Trung Quốc.
Phân tích hiện thời về ảnh hưởng của Vương bị chia rẽ
giữa những người coi ông ta là tín đồ thật sự tin tưởng vào “chủ nghĩa chuyên
chế mới” (neo-authoritarianism) và những người phát hiện ra một
xúc cảm tự do thận trọng trong những lời bình luận rải rác của ông về giá trị của
nền dân chủ và pháp quyền đối với nhà nước hiện đại. Nhưng sẽ là một sai lầm
khi cố tìm xem ông này có đặt tầm quan trọng tối hậu vào những mục đích cá
nhân, dù được biểu lộ công khai hay “tiềm ẩn”, hay không. Ngay cả khi ở gần đỉnh
cao quyền lực, Vương vẫn là người tuân thủ và phụ thuộc vào lợi ích của đảng Cộng
sản Trung Quốc. Trừ phi có một cuộc khủng hoảng nào đó chưa nhìn thấy được, các
công việc công cộng của ông ta vẫn sẽ tiếp tục phục vụ cho đảng. Và do vậy, cái
lý thuyết của chính Vương sẽ biện minh cho sự phụ thuộc của ông ta.
*
Ryan Mitchell là phó giáo sư luật, đại học Trung Hoa
ở Hong Kong.
———–
Chú
thích (của người dịch):
(1) Chủ quyền Westphalian, hoặc chủ quyền quốc gia,
là nguyên tắc pháp lý quốc tế có nguồn gốc từ hiệp định Westphalia ký kết giữa
các quốc gia châu Âu năm 1648 để chấm dứt cuộc Chiến tranh Ba Mươi Năm. Theo
nguyên tắc này mỗi quốc gia-nhà nước đều có chủ quyền đối với lãnh thổ và công
việc nội bộ của mình, loại trừ mọi thế lực bên ngoài, theo nguyên tắc không can
thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Mọi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều
bình đẳng trước luật pháp quốc tế.
(2) Hội Quốc liên (The League of Nations) –
tiền thân của Liên hiệp quốc – là tổ chức liên chính phủ đầu tiên được thành lập
ngày 10/1/1920 theo quyết định của hội nghị hòa bình Paris về chấm dứt Chiến
tranh Thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Nhiệm vụ của Hội Quốc liên là bảo vệ
hòa bình thế giới, ngăn ngừa chiến tranh thông qua cơ chế an ninh tập thể, giải
trừ quân bị và dàn xếp tranh chấp quốc tế thông qua đối thoại. Vào thời đỉnh
cao (1934-1935) Hội có 58 quốc gia là thành viên, trong đó không có Hoa Kỳ. Tuy
nhiên, sự bùng nổ Chiến tranh Thế giới lần thứ hai (1939-1945) cho thấy Hội Quốc
liên đã không hoàn thành được nhiệm vụ và hội đã giải thể sau 26 năm tồn tại.
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Liên hiệp quốc được thành lập để kế tục
những nhiệm vụ của Hội Quốc liên với tổ chức chặt chẽ hơn, rộng rãi hơn.
(3) Quyền tự quyết của các dân tộc (national
self-deternimation) – quy định một dân tộc, dựa trên nguyên tắc bình đẳng
về quyền và công bằng về cơ hội, được tự do lựa chọn chủ quyền và vị thế chính
trị quốc tế mà không ai can thiệp được – là nguyên tắc căn bản nhất của luật
pháp quốc tế hiện đại, được khẳng định trong Hiến chương Liên hiệp quốc.
Được khởi xướng từ năm 1860, nguyên tắc dân tộc tự
quyết được chính thức tôn vinh tại hội nghị hòa bình Paris về chấm dứt Chiến
tranh Thế giới lần thứ nhất, trong tuyên ngôn 14 điểm ngày 8/1/1918. Tổng thống
Hoa Kỳ Woodrow Wilson tuyên bố: “Các khát vọng dân tộc phải được tôn trọng; giờ
đây người dân được thống trị và chỉ được cai trị theo sự ưng thuận của họ. ‘Tự
quyết’ không phải là lời nói suông mà là một nguyên tắc hành động bắt buộc”.
Nhân dịp này, nhóm người Việt Nam yêu nước tại Paris đã gửi kiến nghị tới hội
nghị, yêu cầu chính quyền thực dân Pháp trao trả quyền tự quyết cho dân tộc Việt
Nam.
------------------
Nguồn
:
Ryan
Mitchell : China’s
Crown Theorist
Foreign
Affairs,
4 December 2017
No comments:
Post a Comment