Saturday 9 December 2017

VƯƠNG HỖ NINH : NHÀ LÝ LUẬN CUNG ĐÌNH CỦA TRUNG QUỐC (Ryan Mitchell - Foreign Affairs)


Ryan Mitchell  -  Foreign Affairs 
Huỳnh Hoa dịch
Viet-studies8/12/2017

Ngày 25/10/2017 khi bảy người mặc âu phục đen bước lên sân khấu đại lễ đường nhân dân ở Bắc Kinh để ra mắt các thành viên ủy ban thường vụ bộ chính trị đảng Cộng sản Trung Quốc, chỉ có một khuôn mặt gây ngạc nhiên. Đó là Vương Hỗ Ninh (Wang Huning) – một lý thuyết gia lâu năm của đảng, một cựu giáo sư về chính trị quốc tế trường đại học Phúc Đán (Fudan) ở Thượng Hải. Ít người dự đoán được ông Vương sẽ thăng tiến tới tầng cao nhất của đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng bây giờ, vị học giả có thời ẩn dật, có tiếng trầm lặng và thận trọng, sẽ có uy quyền về ý thức hệ chỉ sau chủ tịch Tập Cận Bình.

Việc bố trí ông Vương vào ủy ban thường vụ bộ chính trị là một sự xa rời đáng ngạc nhiên với thực tế vài thập niên gần đây. Theo truyền thống, ủy viên ủy ban thường vụ phải được chọn trong các ủy viên bộ chính trị nổi bật, có kinh nghiệm làm bí thư các tỉnh hoặc thành phố ngang cấp tỉnh. Ông Vương, trái lại, chỉ từ Văn phòng nghiên cứu chính sách trung ương, nơi ông là giám đốc lâu năm, theo dõi sự phát triển nền tảng ý thức hệ của đảng Cộng sản Trung Quốc. Trước đây chỉ có một trường hợp duy nhất mà một lý thuyết gia như ông Vương được đưa vào ủy ban thường vụ là vào thời kỳ khởi xướng cuộc Cách mạng Văn hóa năm 1966, khi ông Mao Trạch Đông đề bạt thư ký riêng của mình là Trần Bá Đạt (Chen Boda).

Tình hình hiện nay của Trung Quốc tất nhiên có nhiều sự khác biệt căn bản so với thập niên 1960. Nhưng cũng có thể có một sự tương đồng đầy ý nghĩa: đó là những sự thay đổi trong vị thế của quốc gia và những quy tắc của chính trị tinh hoa dường như lại một lần nữa đưa đảng Cộng sản Trung Quốc tới điểm chuyển hóa. Sau khi trải qua một cao trào gia tăng uy quyền cho đến khi được tấn phong làm lãnh tụ cốt lõi của đảng, gần đây ông Tập Cận Bình đã khởi động nhiệm kỳ tổng bí thư thứ hai của mình bằng việc công bố học thuyết về “Kỷ nguyên mới” của chủ nghĩa xã hội mang đặc điểm Trung Quốc, cùng với nhu cầu bảo đảm sự ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế chất lượng cao trong khi gia tăng toàn diện sức mạnh của đất nước. Cũng trong thời gian này, ông Tập nhiều lần nhấn mạnh tới mối nguy hiểm sống còn theo kiểu Xô viết mà đảng của ông sẽ rơi vào nếu như đảng không thúc đẩy được một cách hiệu quả niềm tin và sự tin cậy trong người dân Trung Quốc bình thường.

Nhiều chính sách của ông Tập – từ “Giấc mộng Trung Hoa” nhằm thống nhất khát vọng của người dân thường với mục tiêu của nhà nước thành một, cho tới công cuộc triệt hạ tham nhũng quyết liệt và quy chế “Bốn Tự Tin” mà mỗi cán bộ đảng phải thể hiện – đều nhắm vào công cuộc phục hồi và biện minh cho quyền lực của đảng Cộng sản. Khi đảng ra tay củng cố quyền lực thì sự thăng tiến của ông Vương Hỗ Ninh có thể nói gì về con đường tiến lên của Trung Quốc trong “kỷ nguyên mới” của ông Tập?

TÌM KIẾM TRẬT TỰ

Trong những năm tháng theo sau cái chết của ông Mao năm 1976, khi Cách mạng Văn hóa dần dần nhường chỗ cho thời kỳ cải cách, có vô số người dân Trung Quốc bắt đầu theo đuổi những giấc mơ đã bị trì hoãn trong suốt một thập niên đấu tranh chính trị. Vương dùng những năm tháng này để đọc những trước tác chính trị có tuổi đời hàng thế kỷ về cái ác trong bản tính của con người, về nguồn gốc của nhà nước, và nhu cầu phải có một lãnh tụ đầy quyền năng để xử lý các xung đột xã hội.

Năm 1978, sau khi tốt nghiệp cử nhân tiếng Pháp, Vương vào trường đại học Phúc Đán tiếp tục học và lấy bằng thạc sĩ về chính trị quốc tế năm 1981. Luận văn tốt nghiệp của ông, về quan niệm chủ quyền quốc gia trong tư tưởng phương Tây, đã lần theo dòng phát triển ý tưởng về nhà nước có chủ quyền hiện đại, từ sự miêu tả đầy đủ đầu tiên trong tác phẩm của Jean Bodin – lý thuyết gia chính trị Pháp thế kỷ 16, người đề xuất một quan niệm về “chủ quyền như là quyền lực tuyệt đối và liên tục của một cộng đồng lợi ích chung”, cho đến những phân tích tỉ mỉ quan niệm này trong các thời kỳ sau, rồi đến sự phủ nhận nó trong thế kỷ 20. Hơn 15 năm sau đó, trong các sách vở và bài báo của mình, Vương nhiều lần quay lại chủ đề về chủ quyền khi ông leo dần lên các nấc thang nghề nghiệp để đến năm 1989, ông trở thành giám đốc chương trình chính trị quốc tế mà ông đã theo học.

Ý kiến căn bản của Vương về chủ quyền thống nhất ở nhiều khía cạnh quan trọng với quan điểm của các nhà lý luận phương Tây. Đối với Vương, chủ quyền đòi hỏi quyền lực chính trị phải có khả năng thực thi sự kiểm soát hành chính thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ mà không có mối đe dọa từ bên ngoài hoặc sự phá hoại từ bên trong. Jean Bodin là người đầu tiên đề ra một lý thuyết chính trị theo đó chỉ có nhà nước mới được nắm giữ thẩm quyền này, loại trừ mọi thế lực chính trị, tôn giáo hoặc pháp lý khác. Điểm cốt lõi của quan niệm này là giả thuyết rằng chủ quyền là bất khả phân chia; cho dù một chính sách hoặc một quy tắc bất kỳ nào đó có thể bị đem ra tranh cãi thì chính vai trò của chủ quyền là chấm dứt vụ tranh cãi ấy. Như Bodin từng viết trong cuốn sách “Six Books of the Commonwealth” (Sáu cuốn sách về cộng đồng thịnh vượng) của ông: “Cũng như Chúa, Đấng Tối thượng, không thể làm ra một đức Chúa bình đẳng với chính Ngài bởi vì Ngài là vô tận, và theo quy luật tự nhiên, hai vô tận không thể cùng tồn tại, vì thế chúng ta có thể nói rằng đấng quân vương mà chúng ta coi là hình ảnh của Chúa không thể làm ra một thần dân bình đẳng với chính ngài mà không hủy hoại quyền lực của ngài được”.

Đối với Vương, sự phát triển lịch sử của những ý tưởng như vậy là đặc biệt quan trọng bởi vì nó cho thấy rằng trong buổi đầu của châu Âu hiện đại, cũng như ở Trung Quốc thế kỷ 20, nhà nước hiện đại đã phải đấu tranh để nổi lên giữa tình trạng hỗn loạn gây nên bởi những thế lực phong kiến, những cuộc chia cắt lãnh thổ và xã hội. Những lý thuyết gia vĩ đại của châu Âu về chủ quyền quốc gia, bao gồm cả Bodin, Thomas Hobbles và Machiavelli (mà Vương coi như người đấu tranh để một nước Ý bị chia rẽ thành “một nắm cát lỏng lẻo trong lòng bàn tay” được thống nhất trở lại, giống như Trung Quốc sau này), đã từng đi trước thời đại của mình khi nhìn ra nhu cầu phải có một hình thức tổ chức chính trị sao cho có thể cung cấp sự thống nhất và trật tự, thoát khỏi sự hỗn mang và yếu kém. Ở Trung Quốc hiện đại cũng như ở nước Ý thời Phục hưng, khuynh hướng bẩm sinh của con người hướng tới chiến tranh và cách mạng, có nghĩa là chỉ có sự tuân phục chung trước một quyền uy tối cao mới có thể tạo thành nền tảng của sức mạnh và sự độc lập của quốc gia.

Tất nhiên những ý tưởng như vậy có một ý nghĩa đặc biệt ở Trung Quốc vào cuối thập niên 1970, sau khi những thử nghiệm thảm khốc của cuộc Cách mạng Văn hóa đã làm suy yếu nhà nước và đặt nghi vấn về những lý lẽ biện minh về ý thức hệ cho quyền cai trị của nhà nước. Nhưng đối với Vương, các nhà lý luận về chủ quyền ở phương Tây thời buổi đầu vẫn có một giá trị vĩnh cửu bởi vì họ sử dụng một cách nhìn thực tế (hoặc “duy vật”) để loại bỏ những tư tưởng kỳ quặc trong thời đại của họ và nắm bắt được những gì mà xã hội thực sự cần có: một nhà cai trị mạnh mẽ, có khả năng thống nhất, trung thành với nhân dân và không chịu bất kỳ ảnh hưởng nào của tôn giáo, ngoại bang hoặc chế độ phong kiến. Các nhà cai trị mạnh mẽ này, đến lượt họ, lại tạo ra những nền tảng của nhà nước ổn định và độc lập sẽ tiếp tục đưa phương Tây lên tột đỉnh của sự thống trị toàn cầu.

TRUNG QUỐC và KẺ THÙ

Tuy nhiên sự vươn lên của phương Tây tới uy thế toàn cầu tự nó cũng thúc đẩy nhiều sự thay đổi sâu xa hơn. Ông Vương đặc biệt giật mình bởi một hiện tượng kỳ lạ. Tại sao, khi các quốc gia tư bản đã gần như thống trị phần còn lại của thế giới, chúng lại dần dần quay lưng với kiểu nhà nước có chủ quyền Westphalia (1) và hướng tới những tầm nhìn có tính phổ quát về “sự quản trị toàn cầu” (global governance), “nhân quyền” và những thứ tương tự? Vương lý giải hiện tượng này trong luận văn tốt nghiệp, trong bài tiểu luận năm 1985 của ông: “On New Developments in the Modern Theory of Sovereignty” (Về những bước phát triển mới trong lý thuyết hiện đại về chủ quyền), cũng như trong cuốn sách ông xuất bản năm 1987 “State Sovereignty” (Chủ quyền quốc gia) và các tác phẩm khác hồi đầu thập niên 1990.

Vương cho rằng, không phải ngẫu nhiên mà các quốc gia phương Tây đã phát triển một nỗi chán ghét chủ quyền quốc gia, và hướng sự quan tâm tới các ý tưởng phổ quát luận (universalist ideas) đúng vào thời điểm họ tìm cách củng cố quyền kiểm soát các đế quốc thuộc địa rộng lớn. Sau cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, khi không còn đất đai để xâm chiếm nhưng lại có hàng loạt những thuộc địa đã chiếm được, các thế lực thực dân đã phát triển các thiết chế quốc tế mới, chẳng hạn như Hội Quốc liên (2) và những phương thức mới để biện minh cho việc thực thi quyền kiểm soát kiểu thuộc địa hoặc bán thuộc địa của họ trên những miền đất rộng lớn của thế giới, gồm cả một phần nước Trung Quốc. Cũng trong thời gian này, lý tưởng về quyền dân tộc tự quyết (3), vốn là bước tiến vĩ đại cuối cùng trong học thuyết về chủ quyền quốc gia truyền thống, đã bị gạt ra bên lề nhằm duy trì tình trạng hiện hữu của thế giới. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai và trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, các quốc gia phương Tây hàng đầu vẫn tiếp tục tìm cách hạn chế hoặc kiểm soát tiến trình giải thực (decolonization), và thường ra tay đàn áp những người, theo quan điểm của Vương, thật sự đại diện cho ý chí chính trị của các dân tộc thuộc Thế giới thứ Ba. Từ quan điểm này, có thể coi những nỗ lực kiên trì của Hoa Kỳ nhằm kiềm chế Liên bang Xô-viết là một phần trong truyền thống lâu dài những cố gắng của phương Tây nhằm duy trì chủ quyền lên phần thế giới ngoài phương Tây, trong khi phủ nhận quyền của các dân tộc ngoài phương Tây chống lại sự thống trị này.

Và như vậy khi nhà khoa học chính trị Hoa Kỳ Samuel Huntington phát triển luận đề “sự va chạm của các nền văn minh” của ông vào đầu thập niên 1990 – cho rằng xung đột giữa các nhóm nền văn minh lớn như Khổng giáo, Hồi giáo, thế giới phương Tây sẽ định hình địa chính trị của thế kỷ 21 – thì ông Vương đã cố ý đưa vào ý tưởng đó một cách diễn dịch thân thiện với đảng Cộng sản và có ảnh hưởng rộng. Theo ông, cái được cho là những giá trị phổ quát của nền văn minh phương Tây chỉ là những hình thức của “chủ nghĩa bành trướng văn hóa” (cultural expansionism) được sử dụng để thâm nhập vào xã hội Trung Quốc. Chỉ có thể chống lại sự thâm nhập này bằng một đảng Cộng sản có khả năng khẳng định vững chắc “chủ quyền văn hóa của chính mình – “chủ quyền quốc gia về văn hóa” là khái niệm mà Vương tiếp nhận để đề cập tới khả năng của Trung Quốc trong việc duy trì sự độc lập về ý thức hệ và sự thống nhất chính trị chống lại sự phê phán của thế giới bên ngoài.

Những thảm kịch như là vụ bạo lực tiếp sau những cuộc biểu tình phản kháng ở quảng trường Thiên An Môn (Tiananmen) năm 1989, theo quan điểm của Vương, là kết quả tự nhiên của việc cho phép công dân Trung Quốc bị mê hoặc bởi ảnh hưởng của ngoại bang đến mức xói mòn quyền uy của nhà nước và cuối cùng đe dọa đưa Trung Quốc trở lại tình trạng “nắm cát trong lòng bàn tay”. Như vậy cả chủ quyền quốc gia đối ngoại của Trung Quốc, hoặc là tự do thoát khỏi vòng kiểm soát trực tiếp của phương Tây lẫn chủ quyền quốc gia đối nội – tức khả năng của nhà nước trong việc tổ chức xã hội và ngăn ngừa xung đột giữa các giai cấp, các nhóm lợi ích – đều phụ thuộc vào khả năng của đảng Cộng sản trong việc xác định và áp dụng các giá trị chính trị, thậm chí cả giá trị đạo đức, theo giới hạn của đảng, và phải được tuân thủ.

Các lý lẽ của Vương về cơ bản là phủ định, đóng khung quanh việc ngăn chặn các điều ác tiềm tàng hơn là hướng tới một tầm nhìn xác định nào. Và mặc dù bản thân đảng Cộng sản Trung Quốc đã gia tăng tìm cách thâu tóm những ngôn từ hùng biện của triết học truyền thống Trung Quốc, song các trước tác của Vương rất ít khi bộc lộ một quan niệm mang tính dân tộc vị chủng đặc biệt nào về nhà nước. Điều cốt lõi trong tư tưởng của Vương không phải là các đặc điểm bản chất của Trung Quốc mà thay vì vậy là năng lực của nhà nước và của người dân mà nhà nước ấy đại diện cho quyền lợi của họ trong công cuộc trung lập hóa mọi thế lực có thể chia rẽ và làm suy yếu khối nhân dân. Tương tự như vậy, mặc dù những bài viết của Vương thời kỳ trước Thiên An Môn đôi khi tán thành những cuộc cải cách ôn hòa, chúng vẫn luôn luôn đặt trong yêu cầu phục vụ và phụ thuộc gần như hoàn toàn vào một mục đích lớn lao hơn là bảo vệ uy quyền của nhà nước. Cuối cùng, ngay cả việc Vương áp dụng chủ nghĩa Marx cũng chỉ thường xuyên tập trung vào việc biện minh cho sự ổn định quyền lực của đảng hơn là hướng tới một xã hội đại đồng không tưởng, cái mà về danh nghĩa quyền lực đó phải xây dựng được. Không một quan niệm trừu tượng nào, cho dù đó là tự do, công lý, bình đẳng, xã hội hài hòa, lòng nhân đức Khổng giáo, thậm chí cả chủ nghĩa duy vật biện chứng… được Vương quan tâm nhiều như là những dữ kiện trần trụi về quyền uy, sự tuân phục và trật tự.

NGÒI BÚT CỦA ĐẢNG

Mối bận tâm hàng đầu của Vương đối với vấn đề chủ quyền – và nỗi hoài nghi của ông đối với cái gọi là sự xâm lấn văn hóa của phương Tây – xuất hiện liên tục trong những bài viết của ông trong suốt thập niên 1980 và 1990. Năm 1995, tổng bí thư Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) và hai cộng sự của ông ta là Tăng Khánh Hồng (Zeng Qinghong) và Ngô Bang Quốc (Wu Bangguo) mời ông Vương tham gia Văn phòng nghiên cứu chính sách trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc để nghiên cứu các vấn đề ý thức hệ. Ở đó, Vương giúp thảo ra thuyết “Ba Đại diện”, đóng góp về ý thức hệ của Giang vào cương lĩnh của đảng. Thuyết này làm rõ một chức năng “đại diện” chính trị mới của đảng Cộng sản Trung Quốc, biện minh cho việc kết nạp vào đảng những người thuộc tầng lớp doanh nhân mới hình thành và người lao động chuyên nghiệp. Từ đó trở về sau, ông Vương giữ vai trò dẫn dắt công cuộc phát triển những lý thuyết mang dấu ấn riêng của các tổng bí thư kế tiếp nhau, gồm học thuyết “Tầm nhìn khoa học về phát triển” của tổng bí thư Hồ Cẩm Đào và học thuyết “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội mang đặc điểm Trung Quốc trong kỷ nguyên mới” vừa đề cập ở trên. Tập là lãnh tụ đầu tiên sau Mao được đưa tên tuổi vào cương lĩnh chính trị của đảng, và ở ông Tập, Vương dường như đã lần đầu tiên nhìn thấy một “đấng quân vương” mạnh mẽ – kiểu lãnh tụ mà Machiavelli từng tìm kiếm – người có thể biến thành hiện thực toàn bộ ý tưởng của Vương về bảo vệ chủ quyền quốc gia của Trung Quốc và chống lại phương Tây.

Sự ủng hộ mà Vương dành cho Tập sẽ được thúc đẩy mạnh hơn nữa bởi thực tế rằng Vương dường như vươn lên vị trí hiện thời không phải bằng uy quyền cá nhân của mình mà hầu như dựa chủ yếu vào những mưu đồ của giới chính trị tinh hoa Trung Quốc. Đặc biệt, theo một số người đã từng làm việc gần gũi với ba nhà lãnh đạo Trung Quốc sau ông Đặng Tiểu Bình thì Vương gần như là ủy viên bộ chính trị duy nhất mà cả ba ông Giang, Hồ và Tập đều không coi là mối đe dọa cho quyền lực của họ, và do đó là vô hại. Các nhà lý luận của đảng trước đây, gọi là những ngòi bút của đảng (biganzi), từng leo lên tới các vị trí đầy quyền lực – kể cả Trần Bá Đạt cũng như những người hoài nghi cải cách sau này như Hồ Kiều Mô (Hu Qiaomu) và Đặng Lập Quần (Deng Liqun) – cũng từng lên voi hoặc xuống chó tương tự tùy vào sự thay đổi trong giới tinh hoa bảo trợ họ. Nhận thức của Vương về những tiền lệ này cho ông có thêm lý do để bảo đảm rằng những đóng góp về ý thức hệ của Vương sẽ tiếp tục biện minh cho quyền lực không thể bị phản đối của đảng và của lãnh tụ Tập. Thật vậy, từ tháng 10 năm ngoái, Vương đã công khai kêu gọi các nhà báo phải “kiên định đi theo đảng” và đã bình luận với các nhà lãnh đạo các công ty công nghệ Trung Quốc và phương Tây về nhu cầu bảo vệ “chủ quyền trên mạng internet” (cyber sovereignty) của Trung Quốc.

Phân tích hiện thời về ảnh hưởng của Vương bị chia rẽ giữa những người coi ông ta là tín đồ thật sự tin tưởng vào “chủ nghĩa chuyên chế mới” (neo-authoritarianism) và những người phát hiện ra một xúc cảm tự do thận trọng trong những lời bình luận rải rác của ông về giá trị của nền dân chủ và pháp quyền đối với nhà nước hiện đại. Nhưng sẽ là một sai lầm khi cố tìm xem ông này có đặt tầm quan trọng tối hậu vào những mục đích cá nhân, dù được biểu lộ công khai hay “tiềm ẩn”, hay không. Ngay cả khi ở gần đỉnh cao quyền lực, Vương vẫn là người tuân thủ và phụ thuộc vào lợi ích của đảng Cộng sản Trung Quốc. Trừ phi có một cuộc khủng hoảng nào đó chưa nhìn thấy được, các công việc công cộng của ông ta vẫn sẽ tiếp tục phục vụ cho đảng. Và do vậy, cái lý thuyết của chính Vương sẽ biện minh cho sự phụ thuộc của ông ta.

*
Ryan Mitchell là phó giáo sư luật, đại học Trung Hoa ở Hong Kong.
———–

Chú thích (của người dịch):

(1) Chủ quyền Westphalian, hoặc chủ quyền quốc gia, là nguyên tắc pháp lý quốc tế có nguồn gốc từ hiệp định Westphalia ký kết giữa các quốc gia châu Âu năm 1648 để chấm dứt cuộc Chiến tranh Ba Mươi Năm. Theo nguyên tắc này mỗi quốc gia-nhà nước đều có chủ quyền đối với lãnh thổ và công việc nội bộ của mình, loại trừ mọi thế lực bên ngoài, theo nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Mọi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều bình đẳng trước luật pháp quốc tế.

(2) Hội Quốc liên (The League of Nations) – tiền thân của Liên hiệp quốc – là tổ chức liên chính phủ đầu tiên được thành lập ngày 10/1/1920 theo quyết định của hội nghị hòa bình Paris về chấm dứt Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Nhiệm vụ của Hội Quốc liên là bảo vệ hòa bình thế giới, ngăn ngừa chiến tranh thông qua cơ chế an ninh tập thể, giải trừ quân bị và dàn xếp tranh chấp quốc tế thông qua đối thoại. Vào thời đỉnh cao (1934-1935) Hội có 58 quốc gia là thành viên, trong đó không có Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sự bùng nổ Chiến tranh Thế giới lần thứ hai (1939-1945) cho thấy Hội Quốc liên đã không hoàn thành được nhiệm vụ và hội đã giải thể sau 26 năm tồn tại. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Liên hiệp quốc được thành lập để kế tục những nhiệm vụ của Hội Quốc liên với tổ chức chặt chẽ hơn, rộng rãi hơn.

(3) Quyền tự quyết của các dân tộc (national self-deternimation) – quy định một dân tộc, dựa trên nguyên tắc bình đẳng về quyền và công bằng về cơ hội, được tự do lựa chọn chủ quyền và vị thế chính trị quốc tế mà không ai can thiệp được – là nguyên tắc căn bản nhất của luật pháp quốc tế hiện đại, được khẳng định trong Hiến chương Liên hiệp quốc.
Được khởi xướng từ năm 1860, nguyên tắc dân tộc tự quyết được chính thức tôn vinh tại hội nghị hòa bình Paris về chấm dứt Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, trong tuyên ngôn 14 điểm ngày 8/1/1918. Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson tuyên bố: “Các khát vọng dân tộc phải được tôn trọng; giờ đây người dân được thống trị và chỉ được cai trị theo sự ưng thuận của họ. ‘Tự quyết’ không phải là lời nói suông mà là một nguyên tắc hành động bắt buộc”. Nhân dịp này, nhóm người Việt Nam yêu nước tại Paris đã gửi kiến nghị tới hội nghị, yêu cầu chính quyền thực dân Pháp trao trả quyền tự quyết cho dân tộc Việt Nam.

------------------

Nguồn :
Ryan Mitchell : China’s Crown Theorist
Foreign Affairs,  4 December 2017











No comments:

Post a Comment

View My Stats