Monday 2 October 2017

TRUNG QUỐC TRONG VIETNAM WAR (FB Mạnh Kim)





Cuộc chiến Việt Nam không chỉ là cuộc chiến “ủy nhiệm” của Mỹ. Những lập luận và cách giải thích quen thuộc cùn mòn về cái gọi là “lý thuyết domino” là không đầy đủ khi nói đến bản chất cuộc chiến. Tìm hiểu quá trình can dự Trung Quốc, với sự cầu cạnh chủ động của Bắc Việt, mới có thể có thêm cái nhìn rõ hơn về cuộc xung đột này.

Một bài báo Washington Post, đề ngày 17-5-1989, viết: “Hôm nay, Trung Quốc đã thừa nhận họ đưa 320.000 quân vào (Bắc) Việt Nam”, và “viện trợ hơn 20 tỷ USD để ủng hộ quân đội chính quy Bắc Việt và du kích Việt Cộng”. Bài báo cho biết thêm, trong thời gian chiến tranh, có những báo cáo tình báo Mỹ cho biết nhiều đơn vị tác chiến Mỹ đã phát hiện lính vận quân phục Trung Quốc và mang phù hiệu quân đội Trung Quốc nhưng Bắc Kinh lúc đó luôn phủ nhận.

Sự có mặt quân đội Trung Quốc tại Bắc Việt bắt đầu từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Tháng 4-1950, ba tháng sau khi Trung Quốc công nhận chính quyền VNDCCH, Việt Minh chính thức xin Trung Quốc viện trợ trang thiết bị quân sự, gửi cố vấn và giúp đào tạo binh lính. Bắc Kinh thành lập Nhóm cố vấn quân sự Trung Quốc với chỉ huy của Vi Quốc Thanh cùng Trần Canh và 281 sĩ quan. Hỗ trợ quân sự Trung Quốc cho Việt Minh tăng từ 3 sư đoàn năm 1950 lên 7 sư đoàn năm 1952. Số người Trung Quốc tại Bắc Việt trong cùng thời gian lên đến 15.000 người... Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, Hà Nội tiếp tục cầu viện Trung Quốc. Trong chuyến đi Bắc Kinh từ 25-6 đến 8-7-1955 của Hồ Chí Minh, Bắc Kinh đồng ý viện trợ 800 triệu tệ (200 triệu USD) để xây 18 dự án, trong đó có nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy điện Hà Nội, nhà máy dệt Nam Định – theo sử gia Qiang Zhai thuộc Đại học Auburn-Mỹ trong “China and the Vietnam Wars, 1950-1975” (trang 71).

Chuyến kinh lý Bắc Kinh của Hồ Chí Minh đã diễn ra trước khi Nhóm cố vấn quân sự Mỹ (MAAG) có mặt tại Sài Gòn (1-11-1955). Và khoảng ba tháng sau khi hai sĩ quan Dale R. Ruis và Chester M. Ovnand trở thành những người Mỹ đầu tiên bị giết chết trong cuộc chiến Việt Nam, khi Việt Cộng tấn công một căn cứ MAAG tại Biên Hòa (8-7-1959), thì, tháng 10, Phạm Văn Đồng sang Bắc Kinh, yêu cầu Chu Ân Lai viện trợ quân sự để miền Bắc có điều kiện “hỗ trợ nhân dân miền Nam”. Ngày 10-11 cùng năm, một phái đoàn quân sự Trung Quốc sang Bắc Việt, nán lại hai tháng để khảo sát, từ hải quân, không quân, học viện quân sự, sân bay, cầu cảng đến thậm chí các nhà máy sản xuất (Qiang Zhai, nđd, trang 82-83).
1959 cũng là thời điểm mà quan hệ giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm với các cố vấn MSUG (Michigan State University Vietnam Advisory Group; đặc trách kiến thiết quốc gia) trở nên rất gay gắt (“Misalliance”, Edward Miller, trang 150). Không như những thông tin gây “ngộ nhận” một cách có chủ ý về việc “miền Nam quỵ lụy và bán đứng quốc gia cho Mỹ”, hai chính quyền VNCH, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, đều luôn thẳng thừng bày tỏ bất bình trước việc Mỹ can thiệp sâu vào nội chính và đặc biệt tự ý đưa quân vào Nam Việt Nam.

Ngày 12-5-1963, Washington Post đăng bài phỏng vấn Ngô Đình Nhu trong đó ông nói rằng “ít nhất 50%” cố vấn quân sự Mỹ tại Nam Việt Nam là “hoàn toàn không cần thiết” và cần phải được đưa đi khỏi (Edward Miller, nđd, trang 258; xem thêm thông tin liên quan trang 230-231). Chính quyền Sài Gòn hiểu rõ tâm lý người dân về sự hiện diện quân đội nước ngoài có thể bị đánh giá như một đạo quân xâm lược; và đất nước lại bị đô hộ bởi ngoại bang (các cuộc biểu tình của sinh viên Sài Gòn đã được kích động bằng lập luận này).

Trong “Tâm tư Tổng thống Thiệu”, tác giả Nguyễn Tiến Hưng cũng thuật lại sự bất mãn của ông Thiệu khi ông nhận được tin Mỹ đưa thủy quân lục chiến vào (đổ bộ Đà Nẵng ngày 8-3-1965) mà không hề được báo trước. Mỹ chưa bao giờ tham vấn ý kiến các tổng thống VNCH về việc đưa quân bộ Mỹ vào Nam Việt Nam. Sự thật này cần được nhấn mạnh. Sài Gòn chỉ yêu cầu Mỹ cung cấp vũ khí và các khoản viện trợ liên quan quân sự chứ không muốn “Mỹ hóa” cuộc chiến theo cách William Westmoreland.

Hà Nội khác với Sài Gòn. Quan hệ Sài Gòn-Washington, về bản chất, khác nhiều so với quan hệ Hà Nội-Bắc Kinh. Cách mà “khi đồng minh Trung Quốc nhảy vào Bắc Việt” cũng khác với cách mà Mỹ “nhảy vào” miền Nam. Bắc Kinh luôn chờ Hà Nội phải gõ cửa. Hè 1962, Hồ Chí Minh và Nguyễn Chí Thanh đến Bắc Kinh. Hồ yêu cầu Bắc Kinh ủng hộ phong trào du kích tại Nam Việt Nam. Mao đồng ý bằng việc cung cấp miễn phí 90.000 khẩu súng, đủ để trang bị cho 230 tiểu đoàn (Qiang Zhai, nđd, trang 116). Tiếp đó, ngày 5-10-1962, Võ Nguyên Giáp lại dẫn một phái đoàn quân sự sang Trung Quốc.

Tháng 5-1963, giữa lúc miền Nam ngập chìm trong cuộc khủng hoảng Phật Giáo dẫn đến sự kiện Thích Quảng Đức tự thiêu (11-6-1963), Chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ sang Hà Nội, nói với Hồ: “Chúng tôi đang đứng bên cạnh các đồng chí. Nếu chiến tranh bùng nổ, các đồng chí có thể xem Trung Quốc là hậu phương” (Qiang Zhai, nđd, trang 117). Ngay sau khi anh em ông Diệm bị giết, tháng 12-1963, tướng Trung Quốc Lý Thiên Hữu (Li Tianyou) đã cấp tốc dẫn một phái đoàn quân sự sang Bắc Việt, nán lại suốt gần hai tháng, bàn bạc một kịch bản chiến tranh toàn diện.

Đại hội Đảng Lao Động tháng 12 đã thống nhất tăng cường tấn công miền Nam. Ngày 27-12-1963, Mao viết cho Hồ, chúc mừng “Đại hội thành công tốt đẹp”. Lúc này, Bắc Kinh bắt đầu phơi bày tham vọng chính trị trong việc “đánh Mỹ” theo cách của Mao. Trong một cuộc nói chuyện với đại diện Bắc Việt năm 1964, Mao nói: “Tốt nhất là mở rộng thành một cuộc chiến lớn hơn. Đừng lo ngại sự can thiệp Mỹ. Tệ lắm thì cũng như một cuộc chiến Triều Tiên nữa mà thôi. Quân đội Trung Quốc đã sẵn sàng. Nếu Mỹ mạo hiểm tấn công Bắc Việt, quân đội Trung Quốc sẽ có mặt lập tức. Quân đội chúng tôi giờ đang muốn một cuộc chiến đây” (“Mao: The Unknown Story”, Jung Chang và Jon Halliday, trang 482).

Vin vào đó, đầu tháng 4-1965, Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp sang Bắc Kinh. Không chỉ yêu cầu tăng cường viện trợ quân sự, lần này, Hà Nội đã mở lời về việc Trung Quốc đưa quân bộ vào. Duẩn nói với Bắc Kinh: miền Bắc cần “phi công tình nguyện, quân lính tình nguyện…”. Ngày 8-4-1965, Lưu Thiếu Kỳ trả lời: “Nguyên tắc chúng tôi là chúng tôi sẽ làm hết sức để cung cấp bất cứ gì mà các đồng chí cần và bất cứ gì mà chúng tôi có. Nếu các đồng chí không mời, chúng tôi sẽ không đến. Chúng tôi sẽ gửi bất kỳ binh chủng nào mà các đồng chí cần…”. Kết quả, Bắc Kinh và Hà Nội ký một số thỏa ước liên quan việc đưa quân bộ Trung Quốc vào miền Bắc. Ngày 21 và 22-4, Giáp thảo luận với La Thụy Khanh chi tiết hơn về điều này. Vài ngày sau, tháng 5, Hồ bí mật thăm Mao tại Trường Sa, Hồ Nam (Qiang Zhai, nđd, trang 133-134).

Năm 1965, sau khi Lê Duẩn chính thức yêu cầu Trung Quốc đưa quân bộ vào, viện trợ Trung Quốc tăng rất nhanh. So với năm 1964, số súng tăng 2,8 lần (từ 80.500 lên 220.767 khẩu); số đạn tăng gần 5 lần (từ 25,2 triệu lên 114 triệu viên); số đạn đại bác tăng gần 6 lần (từ 335.000 lên 1,8 triệu viên)… Từ tháng 6-1965, Trung Quốc bắt đầu ào ạt đổ quân vào miền Bắc, cùng với nhiều loại quân cụ, từ hỏa tiễn phòng không, đạn dược đến các đơn vị công binh, phá mìn, kỹ thuật quân sự… Tổng số quân lính Trung Quốc tại Bắc Việt từ tháng 6-1965 đến tháng 3-1968 lên đến 320.000 người (Qiang Zhai, nđd, trang 136-137).

Luôn chần chừ trong kế hoạch hiện đại hóa quân lực VNCH, mãi đến tháng 6-1968, sau sự kiện Mậu Thân, Mỹ mới cung cấp súng M-16 cho binh lính miền Nam (Nguyễn Tiến Hưng, nđd, trang 278). Trong khi đó, chỉ trong năm 1968, Trung Quốc đã viện trợ cho Bắc Việt: 219.899 khẩu súng; 1.854 bộ đàm; 454 xe cơ giới; một triệu bộ quân phục. Trong 10 năm, từ 1964-1974, Trung Quốc viện trợ tổng cộng 560 chiếc xe tăng; 144 máy bay; 1.781.197 khẩu súng, hàng triệu viên đạn các loại…

Mỹ can thiệp vào Nam Việt Nam để ngăn chặn “làn sóng Đỏ” – hàng trăm quyển sách và nhiều đời sử gia đã nhai đi nhai lại điều này. Đến nay, người ta vẫn nói về cuộc chiến như một “cuộc chiến của Mỹ”. Đã thành “quán tính” khi các phân tích rơi vào lối mòn trong việc mổ xẻ quyền lợi Mỹ, trong khi quyền lợi Trung Quốc thì gần như phớt lờ. Cuộc chiến Việt Nam không chỉ là cuộc chiến của “5 đời tổng thống Mỹ”. Nó còn là cuộc chiến của Mao Trạch Đông. Nó là cuộc chiến, bằng máu người Việt, của những kẻ hoạt đầu chính trị quốc tế.
Với Trung Quốc, việc giúp Bắc Việt đáp ứng 5 mục tiêu lớn: 1/ Cản trở nguy cơ Mỹ đe dọa an ninh quốc gia họ; 2/ Thể hiện khả năng và vị trí số một như một đàn anh đáng tin cậy cho phong trào quốc tế cộng sản; 3/ Chứng tỏ Trung Quốc đủ sức tranh giành vị thế lãnh đạo quốc tế cộng sản trước Liên Xô; 4/ Tạo uy tín chính trị cho cá nhân Mao trong nước; 5/ Cuối cùng, sự can thiệp tại Đông Dương cho thấy một tham vọng xa hơn của Mao: tạo ra một trật tự thế giới mới thay thế trật tự thế giới cũ thời hậu thực dân, mang lại cho Trung Quốc cảm giác rửa được những mối nhục thời Thế chiến thứ hai.

Di sản cuộc chiến của Mao tại Việt Nam, cùng mối quan hệ Bắc Kinh-Hà Nội, không chỉ có xác 1.100 lính Trung Quốc và 4.200 người bị thương, sau khi những người lính Trung Quốc cuối cùng rút khỏi Bắc Việt vào tháng 8-1973. Nó còn dây dưa như một thứ quan hệ đồng minh kỳ lạ, như thể Bắc Kinh chỉ có “nhảy vào” nhưng không hề có ý “tháo chạy”. Dù có lúc bất đồng nhưng di sản quan hệ Mao-Hồ đến nay vẫn tạo ra một thứ “quan hệ” mà Lưu Vân Sơn, ủy viên Thường vụ Bộ chính trị Trung Quốc, trong chuyến kinh lý Hà Nội giữa tháng 9-2017, đã miêu tả bằng cụm từ: “Hai nước có cùng số phận”. Làm thế nào có thể tự hào để nói về “nền độc lập” sau chiến tranh, khi mà Hà Nội vẫn còn bị ràng buộc dai dẳng bởi một thứ quan hệ “sống cùng sống, chết cùng chết” với Trung Quốc? Hàng triệu triệu người Việt đã chết trong cuộc chiến để đổi lấy một “nền độc lập” như vậy, liệu có xứng đáng không?

....
“China and the Vietnam Wars, 1950-1975” của sử gia Qiang Zhai thuộc Đại học Auburn (Mỹ), một trong những quyển sách hiếm hoi viết về vai trò Trung Quốc trong cuộc chiến Việt Nam


*
Đinh Viết Khiêm Xin mời mọi người tham khảo các tài liệu tình báo thu thập được về mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, và được Wilson Center công bố để biết quân đội Trung Quốc có mặt ở Việt Nam hay không.

http://digitalarchive.wilsoncenter.org/col.../87/vietnam-war

Trong cuộc thảo luận ngày 14/4/1966 giữa Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Khang Sinh, Lê Duẩn và Nguyễn Duy Trinh. Đặng nói: " Chúng tôi không biết có tốt hơn cho quan hệ giữa hai đảng và hai nước khi chúng tôi gởi một trăm ngàn quân sang Việt Nam. Cá nhân tôi cho rằng sẽ tốt hơn cho quân Trung Quốc về nước ngay sau khi họ hoàn tất nhiệm vụ. Trong vấn đề này chúng tôi không có bất kỳ ý đồ xấu nào, nhưng kết quả lại là điều chúng ta không muốn." Sau đó Lê Duẩn đáp: "Về sự giúo đỡ của Trung Quốc cho Việt Nam, chúng tôi rất thông suốt và không có bất kỳ lo ngại nào. Hiện giờ có hơn một trăm ngàn quân Trung Quốc ở Việt Nam, nhưng chúng tôi nghĩ rằng bất kỳ khi nào có chuyện nghiêm trọng xảy ra, sẽ cần tới hơn nửa triệu quân lận." Sau đó Lê Duẫn đề cập tới con số cụ thể là một trăm ba chục ngàn quân Trung Quốc có mặt ở Việt Nam ở thời điểm đó.
http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/113071

Số quân Trung Quốc này không tự nhiên mà có mặt ở Việt Nam. Do Hồ Chí Minh và Lê Duẫn mời vô trước đó.

Trong cuộc họp ngày 8/4/1965 giữa Lưu Thiếu Kỳ và Lê Duẫn, Lê Duẫn yêu cầu: "Chúng tôi muốn phi công tình nguyện, lính tình nguyện, và các loại tình nguyện khác gồm cả các đơn vị công binh cầu đường." Lưu đáp: "Chính sách của chúng tôi là giúp bạn hết mình. Chúng tôi sẽ cung cấp tất cả những gì bạn cần, và sẳn lòng giúp. Nếu bạn không kêu gọi, chúng tôi sẽ không đến. Và, nếu bạn cần đến một đơn vị nào của chúng tôi, chúng tôi sẽ gởi ngay đơn vị đó tới. Hoàn toàn là do các bạn đề xuất."
http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/113058

Sau đó trong cuộc họp giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh ngày 16/5/1965, Hồ yêu cầu: "Trước hết, chúng tôi cần Trung quốc giúp đỡ xây sáu con đường mới. Những con đường này chạy vô Nam xuyên qua hậu phương của chúng tôi. Trong tương lai chúng sẽ được nối tới các mặt trận. Hiện giờ chúng tôi có ba vạn người làm các con đường này. Nếu Trung Quộc giúp, chúng tôi sẽ gởi lực lượng đó vô Nam. Cùng lúc, chúng ta phải giúp các đồng chí Lào làm các con đường từ Sầm Nứa tới Xiêng Khoảng, rồi từ Xiêng Khoảng tới Hạ Lào, và tới miền Nam." Mao trả lời: "Vì chúng ta sẽ đánh lớn trong tương lai, sẽ tốt nếu chúng ta làm đường tới Thái Lan luôn." Hồ đáp: "Nếu Mao Chủ tịch đồng ý rằng Trung Quốc sẽ giúp chúng tôi, chúng tôi sẽ gởi lực lượng vào Nam." Mao: "Chúng tôi chấp thuận đơn đặt hàng của các bạn. Chúng tôi sẽ thực hiện. Không thành vấn đề,"
http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/113059

Trên đây chỉ là những mảng chấm phá của một bức tranh rộng lớn hơn nhiều mà chúng ta vẫn chưa được biết hết. Nếu chỉ dựa vô cái thấy và cái biết của mình trong một phạm vi nhỏ thì không đủ để chấp nhận một thực tế kinh khủng hơn nhiều. Tôi tin rằng, một khi tiếp cận ̣được các nguồn tài liệu gốc sau này - khi chính quyền CS ở cả VN và TQ bị thay thế bằng thể chế dân chủ, chúng ta sẽ phải kinh hoàng khi nhận chân ra sự thực.
*
Documents on the Vietnam War. These telegrams, minutes, and discussion notes range from the…
DIGITALARCHIVE.WILSONCENTER.ORG

*
Dương Hoài Linh Bài viết nêu luận điểm VNDCCH thực hiện chiến tranh ủy nhiệm đánh thuê cho Trung Quốc là chính xác. Bởi vì thực tế khó chối cãi là Trung Quốc đang tiến hành xâm lược mềm VN. Bất kỳ ai có mắt cũng nhận ra điều đó qua 15 văn kiện "hợp tác toàn diện" với Trung Quốc mà Nguyễn Phú Trọng đã ký với Tập Cận Bình. Nhưng nói VNCH tiến hành chiến tranh "ủy nhiệm" cho Mỹ là sai lầm. Khi một đội quân đánh thay cho một đội quân khác thì phải thực hiện mục tiêu của đội quân đó. Trong khi Mỹ ngăn chặn CNCS và chống xâm lược cho VNCH thì chỉ có VNCH có lợi chứ Mỹ thì không. Do đó nên nói rằng Mỹ đánh thay cho VNCH trong một cuộc chiến "ủy nhiệm" chống xâm lược thì khách quan hơn.

CỘNG SẢN XÂM LƯỢC MIỀN NAM HAY MỸ ? AI LÀ KẺ CHỐNG XÂM LƯỢC ?
Ngày 24/5/2016 Tổng thống Obama đã dẫn lời bài thơ thần Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt ngay trong phần mở đầu của bài diễn văn trước 4.000 sinh viên, trí thức Việt Nam tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội.Trong bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt có 4 câu :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm.
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Tất nhiên cử tọa vỗ tay rào rào vì nghĩ Obama đang nói về mối quan hệ Trung Việt. Nhưng thật ra còn một mối quan hệ Nam Bắc khác mà bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt đã ứng vào giữa chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và sự xâm lăng của Bắc Việt.
Tất cả những người dân miền Bắc do lối giáo dục và bộ máy tuyên truyền của chế độ cộng sản nên không còn nhận chân được sự thật. 90% người dân khi được hỏi đều khẳng định rằng chính quyền VNCH là chính quyền tay sai của Mỹ và Mỹ đặt chân đến Việt nam là để xâm lược. Dù rằng bao nhiêu năm qua Mỹ chẳng thèm lấy bất cứ thứ gì trong cái gọi là "rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu" của họ.
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều nước ở Châu Âu , Châu Á và châu Mỹ muốn sát nhập vào Mỹ thành tiểu bang thứ 51 để hưởng lợi từ bản hiến pháp dân chủ mà nước Mỹ mang lại và được quân đội Mỹ bảo vệ miễn phí thế nhưng nước Mỹ không thèm. Điều đó có nghĩa là họ sẵn sàng hai tay dâng " rừng vàng , biển bạc, đất phì nhiêu" của họ cho Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ để trở thành công dân hàng đầu thế giới, để có đầy đủ tự do, dân chủ , nhân quyền mà không phải tốn bất kỳ giọt máu nào thế nhưng vẫn không được chấp nhận. Chỉ có dân Việt Nam quá khôn khi lấy tính mạng mình để từ chối cái đặc ân , cái diễm phúc đó. Vậy nên họ mới bị quả báo ngày hôm nay là bị cướp đất, cướp quyền làm người, bị cắt cổ , tra tấn trong đồn công an từ chính những kẻ mà họ từng ôm ấp che giấu , nuôi nấng bằng tính mạng mình dưới hầm bí mật năm nào .
Đó là cái giá của nhận thức mà mãi hơn nửa thế kỷ dân Việt Nam mới chỉ có một số ít người nhận ra được. Đa số vẫn còn u mê.
Bây giờ xét trong chiến tranh Việt Nam ai xâm lược ai ?
Muốn vậy phải nắm thế nào là xâm lược? Xâm lược là hình thức xâm chiếm chủ quyền của một lãnh thổ , một vùng đất của một quốc gia đã được nhiều nước công nhận.
Quốc gia Việt Nam có phải là một quốc gia không ?
Dứt khoát "Quốc gia Việt Nam" là một quốc gia vì nó đã được độc lập vào ngày 11/3/1945. Còn cái quốc gia độc lập ngày 2/9/1945 chỉ là quốc gia giả do cướp được mà có.
Thế nhưng cái oái ăm ở đây là quốc gia giả lại đi xâm chiếm đất đai của quốc gia thật và hô biến một cái lại bảo mình đi chống xâm lược để che lấp chuyện đi xâm lược một vùng đất khác.
Như vậy câu " Sông núi nước Nam vua Nam ở" ứng vào thực tế thì vua Nam chính là " Quốc gia Việt Nam" và giặc phương Bắc chính là CSVN đang thực hiện chiến tranh ủy nhiệm đánh thay , chết thế cho Trung Quốc xâm lược Việt Nam.
Người Mỹ là lực lượng đồng minh của "Quốc gia Việt Nam" sau này là Việt Nam Cộng Hòa đến để giúp người miền Nam chống xâm lược lại bị bộ máy truyền thông của cộng sản biến thành kẻ đi xâm lược.
Mỹ và CSVN ai đến miền Nam trước?
Cộng sản đã chuẩn bị cho âm mưu xâm chiếm miền Nam từ 1954. Và chúng đã đánh chiếm miền Nam mấy năm trước khi xảy ra phong trào Đồng Khởi 1960. Trong khi người Mỹ đầu tiên tử trận tại Việt Nam dưới dạng cố vấn là vào năm 1961.
Như vậy CSVN đã xâm chiếm miền Nam Việt Nam khi chưa có Mỹ nhưng lại bảo chống Mỹ xâm lược thì đó lại là một sự ngụy biện giả dối trắng trợn.
Dân miền Bắc bị nhiễm lối tuyên truyền này không nói làm gì ngay cả dân VNCH cũng cho rằng chính vì Mỹ đến miền Nam nên miền Nam mới mất vào tay cộng sản.
Họ đã phủ nhận xương máu của 58.000 thanh niên Mỹ đến Việt Nam từ khắp mọi miền của nước Mỹ vào tháng 3 năm 1965 để ngăn chặn xâm lược , bảo vệ tự do cho chính họ.
Lịch sử phải được soi sáng , trả lại công bằng. Kẻ nào xâm lược phải gọi đích danh và những người nào hy sinh cho mình, mình phải ghi ơn. Tiếc là người Việt Nam cho đến bây giờ vẫn còn mơ hồ về điều này.

https://www.facebook.com/linh.duong.1884/posts/1398454956870660

---------------------------------

by Qiang Zhai
Reviewed by Lucian W. Pye
Recently declassified archival material in China has shed much light on China's participation in Vietnam's wars. In this account, Qiang Zhai argues that Chinese support was essential for the victory over the French and quite substantial against the Americans; in the war against the United States, China provided 320,000 support troops, more than 1,000 of whom were killed. Focusing on Beijing's military and diplomatic advice to Hanoi, the author depicts Zhou Enlai as a leading hawk who opposed any Vietnamese negotiations with the Americans, often pushed to escalate the fighting, and tried to sabotage the peace process from 1965 to 1968. Beijing was still pressing Hanoi to keep up the war even as Kissinger and Nixon went to China in 1972. Ironically, the very successes of the Vietnamese compelled the Chinese to reverse directions when they found that they had a power on their southern flank that was growing closer to China's adversary, the Soviet Union. For their part, the Vietnamese happily accepted China's assistance but resented its attempts to mastermind Indochinese developments








No comments:

Post a Comment

View My Stats