Nguyễn Thị Từ Huy
Viet-Studies 24-4-2014
Bản nhận
xét về luận văn Nhã Thuyên của PGS.TS. Phan Trọng Thưởng đã được công
bố trên VanVN của Hội Nhà Văn Việt Nam, và mới chỉ trong vài ngày đã gây ra
nhiều phản ứng, từ thất vọng đến phẫn nộ.
Ở đây, tôi đánh giá bản nhận
xét ấy với tư cách là một người có tham gia vào quá trình đào tạo ở đại học, và
tập trung vào một khía cạnh: nó có đảm bảo tính khoa học hay không?
Dù chỉ riêng một khía cạnh đó
thôi, bản nhận xét của ông Phan Trọng Thưởng cũng đặt ra rất nhiều vấn đề, nên
tôi buộc phải lựa chọn một số điểm và phải bỏ qua rất nhiều điểm khác. Những
người còn hứng thú phân tích bản nhận xét này vẫn có thể tiếp tục đưa ra các
bình luận về các chi tiết trong đó.
I. Những lỗi cơ bản:
Lỗi trích dẫn
Toàn bộ bản nhận xét dài 10
trang A4 (cỡ chữ 12) có khoảng 52 trích dẫn (có thể tôi liệt kê chưa đầy đủ vì
có những đoạn in nghiêng nhưng không để trong ngoặc kép nên khó có thể xác định
đó có phải là trích dẫn hay không). Trong đó có 6 trích dẫn có đánh số trang,
còn lại 46 trích dẫn không đánh số trang. Phạm một lỗi sơ đẳng như vậy một cách có hệ thống như vậy thì quả thật đáng tiếc cho một
người có học vị TS và học hàm PGS như ông Phan Trọng Thưởng. Nhất là khi
ông quyết định đăng công khai văn bản này. Ai cũng biết rằng khi ông không đánh
số trang thì không thể (hoặc rất khó) kiểm chứng. Và do đó, người ta sẽ hoài
nghi rằng không biết dẫn chứng của ông có thật không, và có bị sửa chữa so với
văn bản không. Lỗi này một sinh viên bậc cử nhân cũng có thể tránh được.
Sai trong quan niệm về đối tượng và tài liệu nghiên
cứu
Dù điều này là sơ đẳng, nhưng
tôi vẫn phải làm mất thời gian quý báu của độc giả khi nhắc lại rằng: mọi sự
kiện, hiện tượng tồn tại trong thực tế đều có thể, hoặc thậm chí là PHẢI trở
thành đối tượng nghiên cứu của các khoa học, nếu một trong những mục đích của
khoa học, như đã được thống nhất từ lâu, là: tìm hiểu về đời sống (tự nhiên và
xã hội), và tìm kiếm các sự thật về đời sống.
Luận điểm của ông Phan Trọng Thưởng cho rằng Mở Miệng không phải là
một hiện tượng chính thống nên không được phép nghiên cứu là một luận điểm
hoàn toàn phi khoa học, không thể chấp nhận được ở thời điểm hiện tại, khi quá trình toàn cầu hóa đã diễn ra gần thế kỷ
nay, và cùng với nó là sự khẳng định đối với quan điểm về đa dạng văn hóa và
quyền được tồn tại của mọi tiếng nói, mọi sự khác biệt về chính kiến, về vị
thế…
Luận điểm cho rằng những gì "dơ, bẩn" đều không thể trở thành
đối tượng nghiên cứu của khoa học lại càng phi lý. Nếu không nghiên cứu những thứ dơ bẩn thì rất
nhiều bệnh sẽ không được chữa trị, nhất là những bệnh phải làm xét nghiệm trên
những thứ dơ, bẩn như phân, nước tiểu… Còn trong văn chương nghệ thuật, những
thứ ghê tởm, nhờn nhớp đã trở thành chất liệu sáng tạo như thế nào, và
"dạng nghệ thuật nhờn gớm" ấy đã trở thành đối tượng của nghiên cứu
khoa học như thế nào, ông Phan Trọng Thưởng có thể đọc trong cuốn Thế mà
là nghệ thuật ư? của Cynthia Freeland. Ông sẽ thấy chẳng riêng gì Mở
Miệng mà các nghệ sĩ lớn trên thế giới cũng sử dụng chất thải của con người,
rác thải của cuộc sống, xác chết… để sáng tạo các tác phẩm của họ. Và những thứ
nhờn tởm đó không chỉ tồn tại duy nhất trong thế giới của nghệ thuật, mà còn đi
vào đời sống. Tôi trích nguyên văn một câu trong cuốn sách: "Thật khó
tưởng tượng làm sao mà những hoạt cảnh xác thịt rữa nát (có cả giòi ở trong)
của Hist lại có thể trợ giúp hình ảnh của ông trong ngành kinh doanh ăn
uống" (Thế mà là nghệ thuật ư?, Cynthia Freeland, bản dịch
tiếng việt của Như Huy, NXB Tri Thức, 2009, tr.51). Nếu bị cấm nghiên cứu về
những tác phẩm và tác giả sử dụng chất liệu dơ bẩn, thì cũng sẽ chẳng làm gì có
công trình khảo cứu của Freeland để mà dịch ra tiếng Việt.
Nhận xét về tài liệu nghiên cứu
của Đỗ Thị Thoan, ông Phan Trọng Thưởng viết:
"Như vậy có thể thấy đối tượng, tài liệu
nghiên cứu đều không mang tính chính thống, thiếu độ tin cậy."
Không có một người làm khoa
học nào đủ can đảm viết một câu như thế cả.
Tính tin cậy của tài liệu
nghiên cứu là ở chỗ: nó có phải là tài liệu gốc không, nó có bị sửa đổi, cắt
xén hay thêm thắt gì so với tài liệu gốc không, nó có phải giả mạo không. Nếu quan niệm như ông Phan Trọng Thưởng, thì khi
nghiên cứu về Hồ Chí Minh, chỉ được phép nghiên cứu các tài liệu có vào thời kỳ
mà Hồ Chí Minh đã được thừa nhận là chính thống, các tài liệu vào thời kỳ ông
hoạt động ngầm, hoạt động bên lề thì không được phép nghiên cứu. Có thể như vậy
được sao??? Như thế thì sao còn gọi là nghiên cứu được!
II. Không đúng quy cách
Ông Phan Trọng Thưởng nói trên
VanVN rằng: « Dựa trên quy cách của
một bản nhận xét luận văn và những yêu cầu do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đề
ra, tôi có một số nhận xét sau đây về luận văn của tác giả Đỗ Thị Thoan. »
Tuy nhiên, trên thực tế, bản
nhận xét của ông không đảm bảo quy cách.
Thứ nhất, một bản nhận xét trung thực và khách quan, tức là một bản nhận xét đảm
bảo yêu cầu khoa học, phải nêu được cả hai khía cạnh: đóng góp của luận văn và
hạn chế của luận văn.
Bản nhận xét của ông Phan Trọng
Thưởng tập trung duy nhất vào hạn chế của luận văn, những hạn chế theo quan
điểm của cá nhân ông.
Có thể trong thực tế sẽ có
những luận văn không hề có đóng góp nào, không hề có ưu điểm nào. Tuy nhiên,
thông thường, những luận văn như vậy sẽ không được người hướng dẫn đồng ý cho
đưa ra bảo vệ. Nếu đồng ý cho đưa ra bảo vệ trước hội đồng một luận văn chỉ có
nhược điểm mà không có ưu điểm nào thì uy tín khoa học của người hướng dẫn sẽ
bị ảnh hưởng tai hại.
Luận văn của Đỗ Thị Thoan không
thuộc trường hợp trên đây. Tôi đồng ý với các nhận xét của Hội đồng Khoa học
(HĐKH) đã chấm luận văn này năm 2010, các bản nhận xét đã công bố trên blog của
Đỗ Thị Thoan, do vậy, tránh làm mất thời gian của độc giả, ở đây tôi không nhắc
lại các ưu điểm và đóng góp của luận văn này. Tôi chỉ khẳng định lại rằng: luận
văn của Đỗ Thị Thoan có những đóng góp và ưu điểm khoa học. Theo tôi, bản thân
việc nghiên cứu Mở Miệng đã là một đóng góp lớn.
Thứ hai, để xét hết các trường hợp, cần phải nói rõ rằng, với một bản nhận xét
thẩm định lại, ông Phan Trọng Thưởng có quyền không đồng ý với đánh giá của
HĐKH 2010. Tuy nhiên, trong trường hợp đó, ông phải nêu lại các lập luận của
HĐKH và tranh luận với các lập luận ấy, nói rõ vì sao ông không đồng ý.
Ông Phan Trọng Thưởng đã không làm như vậy. Bản nhận xét của ông không hề có
một tranh luận nào với HĐKH 2010, cũng không hề nêu một đóng góp nào của luận
văn. Như tôi đã nói, bản nhận xét của ông chỉ duy nhất nêu lên những điểm mà
theo ông là hạn chế của luận văn.
Như vậy, tính phi khoa học của
bản nhận xét là ở chỗ: ông Phan Trọng Thưởng đánh giá luận văn không dựa vào
thực tế văn bản của luận văn, không dựa vào các tiêu chí khách quan của khoa
học, mà chỉ dựa vào quan điểm riêng của ông và chọn lọc duy nhất các yếu tố của
luận văn giúp ông chứng minh quan điểm của mình. Nếu không tìm đủ các dẫn chứng
để tạo sức thuyết phục thì sẽ phải ngụy tạo dẫn chứng. Đó là điều mà tôi sẽ đề
cập ngay sau đây.
III. Ngụy tạo dẫn chứng, bóp méo sự thật
Để chứng minh cho các cáo buộc
của mình, ông Phan Trọng Thưởng đã buộc phải bóp méo thực tế của luận văn, cho
phù hợp với nhận định của ông. Về điểm này, xin quý độc giả tham khảo bài
Đọc
bản nhận xét phản biện LV Nhã Thuyên của PGS Phan Trọng Thưởng của Vũ
Thị Phương Anh và bài Nghịch lý văn
chương và thông điệp đẫm máu của Hà Nhân trên website Văn
Việt và Viet-studies, để thấy được sự đa dạng của những dẫn chứng bị ngụy tạo.
Ở đây tôi dẫn lại một ví dụ mà
Hà Nhân đã dẫn. Trong phần kết luận, ông Phan Trọng Thưởng viết:
"Như tác giả luận văn đã
tự xác nhận, đây là một luận văn “chính trị đội lốt văn chương”. "
Đây có thể xem là kết luận nặng
ký nhất, là lý do căn bản nhất để ông Phan Trọng Thưởng phủ quyết giá trị
khoa học của luận văn của Đỗ Thị Thoan.
Trên thực tế, tác giả luận văn
không tự xác nhận như vậy. Nguyên văn đoạn có mệnh đề được ông Phan Trọng
Thưởng trích là như sau:
"Câu hỏi đây là sự cách
tân văn chương mang tính chính trị hay là hành vi chính trị đội lốt văn chương
thấm đẫm nguyên lý ý thức hệ và sự lệ thuộc vào một từ chính trị được cắt nghĩa
hẹp hòi: Tại sao các anh không cứ cách tân đi, bởi văn chương mới chính là lĩnh
vực của anh? Tại sao phải lên tiếng về chính trị và bình luận xã hội? “Nay ở
trong thơ nên có thép” có chính trị không? Không phải chúng ta đã bội thực thứ
văn chương (phục vụ) chính trị rồi sao?”. Khi nhà thơ tự đem mình ra như tang
chứng của đời sống, của sự áp chế, họ không sở hữu quyền lực thực sự. Có lẽ vì
tính chất vô ích của loại hình nghề nghiệp này, những câu hỏi về vị trí trách
nhiệm của nhà văn với xã hội và bối cảnh vẫn cứ được đặt ra, nhiều nghịch lý
hài hước mà khó trốn thoát. Vậy cái tình thế của một nhà thơ/một nghệ sĩ Việt
Nam, hoặc là thoát khỏi bối cảnh, trở thành một “công dân toàn cầu”, hoặc “vị
nghệ thuật vị cá nhân” hoặc là gắn chặt với bối cảnh thì phải vừa chính trị, mà
lại vừa nghệ thuật và cách tân? Thông thường, hai điều này có tính cách xung
đột và triệt tiêu nhau. Tôi cho rằng chỉ có sự trung thực cá nhân thì phẩm chất
chính trị của văn học mới không mang tính tuyên truyền. Điều kiện ngoài lề nuôi
dưỡng một thứ ngữ pháp của giải phóng, nhưng ngữ pháp của giải phóng chỉ thực
sự mạnh mẽ dưới những chiết xuất ngôn ngữ của những kẻ lặn ngụp trong chính
cuộc sống của ngôn ngữ. (LV, tr.73)
Khi phân tích đoạn văn này, dù
là một học sinh phổ thông, với khả năng đọc hiểu còn nhiều hạn chế, cũng không
thể nào hiểu nhầm thành ra tác giả tự nhận rằng luận văn của mình là một luận
văn « chính trị đội lốt văn chương » được.
Ông Phan Trọng Thưởng càng
không thể hiểu nhầm, ông trích mấy chữ ấy ra khỏi ngữ cảnh, và cố tình gán cho
tác giả điều mà tác giả không có.
Hơn nữa, đặt cả đoạn văn trên
trong bối cảnh rộng hơn của nó ở trang 72-73 của Luận văn, ta sẽ thấy mục đích
của cả đoạn đó là sự hoài nghi Đỗ Thị Thoan dành cho nhóm Mở Miệng (ngược hẳn
với quy kết của Phan Trọng Thưởng) ở phương diện này: động cơ chính trị có làm
giảm mất giá trị văn chương không? Đỗ Thị Thoan không ca ngợi Mở Miệng một
chiều, trái lại, cô đánh giá Mở Miệng ở các khía cạnh đóng góp và hạn chế của
hiện tượng văn học này.
Hành vi bóp méo sự thật của ông Phan Trọng Thưởng trong việc ngụy tạo dẫn
chứng trên đây là một hành vi phản khoa học. Đó là một hành vi vu khống.
IV. Quy chụp chính trị thiếu căn cứ
Tất cả các luận điểm dẫn tới
các kết luận trong bản nhận xét của ông Phan Trọng Thưởng đều tập trung vào vấn
đề tư tưởng và vấn đề chính trị. Xin mời quý độc giả đọc lại toàn bộ bản nhận
xét và đọc kỹ phần kết luận của ông Phan Trọng Thưởng trên trang VanVN.net. Tôi
không dẫn lại ở đây vì quá dài. Tôi chỉ trích một câu này ở phần kết luận, mà
theo tôi, đã tổng kết toàn bộ bản nhận xét:
"Rõ ràng, những sai phạm
về tư tưởng của tác giả luận văn là có hệ thống và có chủ đích."Thực tế,
chẳng có gì rõ ràng như ông Phan Trọng Thưởng nói. Luận văn của Đỗ Thị Thoan
không có những sai phạm về tư tưởng. Hơn nữa chữ « sai phạm » là một
chữ rất mơ hồ mà bản thân ông Phan Trọng Thưởng cũng không chứng minh được cho
thuyết phục nên mới phải sự dụng biện pháp ngụy tạo dẫn chứng một cách phản
khoa học, như đã dẫn ở trên. Nếu đọc luận văn một cách khách quan sẽ thấy là Đỗ
Thị Thoan làm đúng công việc của một người nghiên cứu: khảo sát hiện tượng,
phân tích và đưa ra những nhận xét về hiện tượng. Đó là một luận văn khoa
học, ở chỗ: luận văn trình bày đối tượng nghiên cứu đúng như nó vốn có trong
thực tế, nhận diện các sự thật của đối tượng nghiên cứu, như là người nghiên
cứu nhận thấy. Dĩ nhiên, những người khác có đồng ý với những phân tích và kết
luận của Đỗ Thị Thoan hay không còn tùy. Điều có thể khẳng định là Đỗ Thị Thoan
không áp đặt lên đối tượng nghiên cứu định kiến riêng của mình, cũng không bắt
đối tượng nghiên cứu phải phục vụ cho những ý đồ ngoài khoa học của mình.
V. Kết luận
Từ những gì đã phân tích trên
đây, tôi đi tới mấy kết luận sau:
1. Bản nhận xét của PGS.TS Phan Trọng Thưởng KHÔNG
PHẢI LÀ MỘT BẢN NHẬN XÉT KHOA HỌC. Do không hướng tới mục đích khoa học, nên
ông Phan Trọng Thưởng không đảm bảo tính khoa học trong các thao tác viết nhận
xét. Văn bản của ông được viết ra trong một mục đích duy nhất: dùng chính trị
để triệt hạ một luận văn khoa học. Nếu mượn ngôn ngữ của chính ông Phan Trọng
Thưởng, thì có thể nói về bản nhận xét của ông như sau: « Về thực chất đây
là một bản nhận xét chính trị trá hình, khoa học chỉ là cái cớ”.
2. Vì thiếu tính khoa học nên bản nhận xét của ông
Phan Trọng Thưởng đã không đánh giá được thực chất của luận văn của Đỗ Thị
Thoan. Các lý do mà bản nhận xét đưa ra hoàn toàn không thuyết phục.
3. Khi dựa trên các kết luận phi khoa học của ông
Phan Trọng Thưởng, một trong các thành viên của Hội đồng Thẩm định lại luận văn
của Đỗ Thị Thoan, để ra quyết định hủy bằng và phủ quyết luận văn này, ông
Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng Trường ĐHSPHN, đã phạm phải một sai lầm trầm trọng
trong việc điều hành các hoạt động khoa học ở trường đại học.
VI. Vĩ thanh
Ông Phan Trọng Thưởng quá lo sợ mà viết trong phần kết luận đoạn văn dưới
đây (và có lẽ để dẹp đi nỗi lo sợ đó mà ông Hiệu trưởng ĐHSPHN đã ký quyết định
thu hồi luận văn Nhã Thuyên?):
“Trong bối cảnh cuộc đấu tranh tư tưởng
đang diễn ra khá phức tạp hiện nay, nếu để lưu hành luận văn này sẽ gây tác hại
không chỉ đến văn học, nghệ thuật mà còn gieo rắc những tư tưởng nổi loạn,
chống đối, gây mất bình ổn trong đời sống chính trị, tư tưởng, tác động tiêu
cực tới thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên trong nhà trường”.
Thực tế là: trước khi xảy ra vụ việc, luận văn của Đỗ Thị Thoan nằm yên lặng trong
phạm vi thư viện của trường ĐHSPHN. Nó không được lưu hành rộng rãi, và hàng
năm chỉ được một số rất ít sinh viên làm luận văn hay luận án về văn học Việt
Nam tham khảo, mà có lẽ cũng chỉ được tham khảo bởi những sinh viên nghiên cứu
về văn học Việt Nam hiện đại thôi. Lẽ ra phạm vi lưu hành của luận văn chỉ rất
hẹp, và số người biết đến nó cũng rất ít.
Hiện nay, cùng với vụ việc này,
luận văn của Đỗ Thị Thoan đã được lưu hành khắp thế giới, hàng bao nhiêu triệu
sinh viên trong cả nước và hàng bao nhiêu triệu người quan tâm đã biết đến nó.
Việc luận văn được phổ biến rộng rãi phải xem là một « công lao » của
PGS.TS Phan Trọng Thưởng, của Hội đồng Thẩm định, của Hiệu trưởng ĐHSPHN và
những người đã « đánh » luận văn này. Và đặc biệt, sau khi Hiệu
trưởng ban hành quyết định hủy bằng và thu hồi luận văn, trước sức ép của công
luận, tác giả đã công bố toàn bộ nội dung luận văn trên mạng. Giờ đây, ai cũng
có thể đọc nó mà không cần phải vào thư viện của trường ĐHSPHN. Theo tôi, đây
là một khía cạnh tích cực của vụ việc.
Luận văn này sẽ có ảnh hưởng tích cực không chỉ đối
với học sinh, sinh viên, mà còn đối với cả các giảng viên và nghiên cứu viên.
Sài Gòn, ngày 23/4/2014
Nguyễn Thị Từ Huy
------------------------------------------
VỤ ÁN NHÃ THUYÊN
LỀ
PHẢI ƠI ! (Nguyễn Hoài An)
23-4-2014
GS.TS.
Phan Trọng Thưởng: Để hiểu rõ hơn thực chất của một luận văn
- Văn Việt 21-4-2014
No comments:
Post a Comment