Friday,
April 25, 2014
Báo
chí Việt Nam đưa tin, vào rạng sáng ngày 18/4/2014, “một nhóm đối tượng người
Trung Quốc” (không nói họ là người Duy Ngô Nhĩ) đã “vượt biên trái phép vào
Việt Nam” và bị bắt giữ, dẫn giải ra cửa khẩu để trả về Trung Quốc. Sự việc này
dẫn tới một vụ nổ súng giữa họ với cơ quan biên phòng Việt Nam, làm chết 7
người, trong đó có 2 chiến sĩ Việt Nam.
Sau
sự cố ở cửa khẩu Bắc Phong Sinh, trong cộng đồng mạng nảy sinh một số câu hỏi:
Nên hay không nên thương xót những người Trung Quốc bị bắn chết, tự sát, hoặc
bị trả về Trung Quốc? Việc họ nhập cảnh trái phép vào Việt Nam có cần phải bị
trừng phạt bằng cách cưỡng bức hồi hương? Nếu không thì nên cư xử với họ
như thế nào? Hành động của nhà chức trách Trung Quốc trong trường hợp này có vi
phạm chủ quyền Việt Nam?
Bài
trả lời phỏng vấn dưới đây của luật sư Vi Katerina Tran, Văn phòng Luật Vi K.
Tran, San Jose, California, có thể cung cấp cho độc giả Việt Nam một số thông
tin để giúp giải đáp các câu hỏi đặt ra.
* * *
1. Báo Tiền Phong, dẫn lại Cổng Thông tin Điện
tử tỉnh Quảng Ninh, cho biết: “Vào hồi 4 giờ 20 sáng ngày 18/4/2014, một nhóm
16 người Trung Quốc gồm 10 nam, 4 nữ và 2 trẻ em đã nhập cảnh trái phép vào
Việt Nam qua khu vực cửa khẩu Bắc Phong Sinh (huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh),
trên đường thâm nhập sâu vào nội địa đã bị các cơ quan chức năng của Việt Nam
phát hiện, bắt giữ và dẫn giải ra cửa khẩu để tiến hành làm các thủ tục trao
trả lại phía Trung Quốc theo quy định và thông lệ quốc tế.”
Xin luật sư cho biết quy định và thông lệ quốc tế cụ
thể nào có thể được dẫn chiếu trong trường hợp này?
- Tôi nghĩ đó là Cao ủy LHQ về Người Tị Nạn (UNHCR),
Công ước LHQ về Người Tị Nạn năm 1951 và Nghị định thư năm 1967 của nó. Còn có
một số công ước và tuyên bố khác, phù hợp cho từng khu vực cụ thể. Ví dụ, có
các công cụ pháp lý về người tị nạn áp dụng cho châu Phi, châu Mỹ Latin, và EU.
Cũng có khá nhiều điều luật về nhân quyền quốc tế bổ sung thêm cho các quyền
của người tị nạn được quy định trong Công ước năm 1951. Các nhà nước thực hiện
cam kết bảo vệ quyền của người tị nạn thông qua những nghĩa vụ của họ về nhân
quyền.
2. Người tị nạn chính trị được định nghĩa như thế
nào? Nói cách khác, có những tiêu chí nào để chúng ta xác định một cá nhân nào
đó là người tị nạn chính trị?
Không có khái niệm “người tị nạn chính trị”, mà chỉ
có khái niệm “người tị nạn” thôi bạn. Theo Cao ủy LHQ về Người Tị Nạn, Công ước
LHQ về Người Tị Nạn năm 1951 quy định rằng người tị nạn là bất cứ ai “vì một
nỗi sợ thâm sâu về khả năng bị ngược đãi, do các lý do liên quan đến sắc tộc,
tôn giáo, quốc tịch, tư cách thành viên của một nhóm xã hội cụ thể, hoặc do
quan điểm chính trị, mà phải ở bên ngoài quốc gia mà người đó mang quốc tịch,
và không thể, hoặc – cũng vì nỗi sợ đó – không muốn tìm kiếm sự bảo vệ của quốc
gia đó”.
3. Vậy trong vụ việc gần đây ở cửa khẩu Bắc Phong
Sinh, chúng ta có thể coi những người Duy Ngô Nhĩ đó là người tị nạn không?
Cách hành xử đối với người Duy Ngô Nhĩ ở Trung Hoa
trong những năm gần đây đã gây ra sự quan ngại sâu sắc trong cộng đồng quốc tế.
Tôi nhớ là vào năm 2009, quốc tế từng kêu gọi không trục xuất 9 người Duy Ngô
Nhĩ khỏi Campuchia. Mới đây, lại có những lời kêu gọi tương tự trong cộng đồng
quốc tế, yêu cầu chấm dứt việc trục xuất những người tị nạn Duy Ngô Nhĩ đang ở Thái
Lan.
Tôi tin rằng căng thẳng giữa sắc tộc Duy Ngô Nhĩ và
tộc Hán ở tỉnh Tân Cương đã leo thang kể từ tháng 7/2009, sau vụ đụng độ giữa
người Duy Ngô Nhĩ và người Hán ở Urumqi [Urumqi, tiếng Hán Việt là Ô Lỗ Mộc Tề,
thủ phủ của khu tự trị Tân Cương – PV]. Từ những gì tôi đọc được, người Duy Ngô
Nhĩ ở Tân Cương không được đối xử bình đẳng với người Hán, và cũng chưa bao giờ
được đối xử bình đẳng kể từ khi Trung Hoa kiểm soát khu vực này vào khoảng năm
1949. Họ không được phép làm một số công việc thuộc khối chính quyền. Việc hành
đạo của họ bị kiểm soát và ngăn cản. Họ bị bắt giam, bị đánh đập nếu dám đòi
quyền bình đẳng và các quyền con người cơ bản. Theo tôi, sắc tộc Duy Ngô Nhĩ ở
Trung Hoa chắc chắn phù hợp với định nghĩa về người tị nạn của Công ước LHQ năm
1951.
Xác những người Duy
Ngô Nhĩ bị chất lên ba xe bò, trả về Trung Quốc.
Hình như bức ảnh đã
bị gỡ khỏi các trang báo (chính thống) của Việt Nam.
4. Theo luật quốc tế, những người đó nên được đối xử
như thế nào?
Khi một người chạy vào một quốc gia khác, gọi là
“nước chủ nhà”, thì nước chủ nhà có nghĩa vụ tiến hành tự đánh giá để xác định
xem người đó có đáp ứng định nghĩa quốc tế về người tị nạn hay không.
Một trong các quyền căn bản của người tị nạn là được
nước chủ nhà bảo vệ khỏi nước mà họ chạy trốn, và không bị trao trả về nước mà
họ chạy trốn đó, bởi vì nếu không người tị nạn đó có thể phải đối mặt với những
đe dọa nghiêm trọng về tính mạng hoặc quyền tự do. Đây là nguyên tắc không
trao trả, nằm trong Điều 33 Công ước LHQ năm 1951.
Công ước năm 1951 này cũng quy định các quyền cụ thể
của người tị nạn trên nước chủ nhà. Ví dụ, quyền không bị trục xuất (Điều 32),
quyền có chỗ ở (Điều 21), quyền được giáo dục (Điều 22), quyền được làm việc
(Điều 17-19), v.v.
Mặc dù Việt Nam không ký Công ước LHQ năm 1951, song
nguyên tắc không trao trả – cấm việc gửi trả người tị nạn về lãnh thổ
nơi tính mệnh hoặc quyền tự do của người đó bị đe dọa – được coi là một quy
định thuộc tập quán pháp quốc tế. Với đó, Nghị định thư năm 1967 quy định rằng
nguyên tắc không trao trả có tính ràng buộc đối với tất cả các
nước, bất kể họ có tán thành Công ước 1951 hay Nghị định thư 1967 hay không.
Không được phép ngăn chặn một người tị nạn – vốn đang đi tìm sự bảo vệ cho mình
– nhập cư vào một quốc gia khác, nếu không thì sẽ tạo thành hành động trao trả.
Việt Nam ở trong số nhiều nước Đông Nam Á không có
điều luật nào quy định về quyền của những người đang xin tị nạn hoặc người tị
nạn. Tuy nhiên, tôi tin rằng UNHCR thực sự đã xây dựng các quy định về tị nạn,
mặc dù thiếu vắng một cơ chế cho tị nạn mang tính quốc gia trong khu vực. Trong
trường hợp Việt Nam, UNHCR đã làm việc với chính phủ Việt Nam về vấn đề người
vô tổ quốc (tức là không được công nhận quốc tịch, không được có tư cách công
dân của quốc gia nào – PV). Do đó, có sự hiện diện của UNHCR ở Việt Nam chứ
không phải là không.
Cá nhân tôi muốn đề nghị Nhà nước Việt Nam cấp nơi
trú ẩn tạm thời cho người tị nạn, đồng thời tìm sự hỗ trợ và hướng dẫn từ UNHCR
để giải quyết vấn đề này, nếu Việt Nam không có điều luật nào liên quan đến
người tị nạn và người đang xin tị nạn.
Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa, rằng bất
kể các quy định và luật lệ riêng của Việt Nam về người tị nạn là như thế nào,
thì Chính phủ Việt Nam vẫn bị buộc phải thực hiện đúng nguyên tắc không trao
trả, có nghĩa là họ không được phép gửi trả những người tị nạn ở nước mình
về nước xuất phát để rồi những người đó sẽ bị ngược đãi; họ cũng không được từ
chối, không cho những người tị nạn đó vào Việt Nam, khi mà người ta đang chạy
trốn khỏi quốc gia xuất thân của người ta.
Ở một nước có luật pháp quy định về quyền của người
tị nạn và người đang xin tị nạn, nói chung, từ phía nước đó sẽ phải có sự tiếp
nhận và hỗ trợ di chuyển, quá cảnh, với sự hỗ trợ từ UNCHR.
UNHCR phối hợp với chính phủ các nước trên khắp thế
giới để giúp họ giải quyết các khó khăn mà họ phải đương đầu trong vấn đề người
tị nạn và người đang xin tị nạn (người đang xin tị nạn là người nhận họ là
người tị nạn, tuy nhiên, tư cách tị nạn của họ chưa được xác định rõ ràng). Ví
dụ như một chương trình 10 điểm mà UNHCR đang triển khai, chương trình này xác
lập các lĩnh vực chính cần có hành động để giải quyết vấn đề nhập cư giữa các
nước xuất phát, nước quá cảnh và nước định cư cuối cùng.
-------
Luật sư Vi Katerina Tran là thành viên của Đoàn Luật sư Quốc tế (International Bar Association, IBA), và có nhiều kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực bảo vệ nhân quyền theo luật pháp quốc tế.
-------
Luật sư Vi Katerina Tran là thành viên của Đoàn Luật sư Quốc tế (International Bar Association, IBA), và có nhiều kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực bảo vệ nhân quyền theo luật pháp quốc tế.
Kỳ
sau: Sự hiện diện của phía Trung Quốc và vấn đề chủ quyền
Posted by Đoan Trang at 7:18 AM
Bản
tiếng Anh:
----------------------------------------
QUESTIONS
RAISED IN BORDER CLASH WITH UIGHUR IMMIGRANTS (vietnamrightnow)
----------------------------------------
Sự kiện 16 người Duy Ngô Nhĩ chạy trốn chế độ CS
Trung Quốc, khi vào đến cửa khẩu Quảng Ninh, bị hải quan Việt Nam dùng vũ lực
vây bắt để trao trả cho Trung Quốc, khiến bạo động xảy ra, đã làm chấn động
nhiều nguồn tin thế giới.
Phân tích mật mới nhất, được tiết lộ từ một sĩ quan
quân đội CSVN giấu tên, cho biết thật ra đó là một kịch bản của Trung Quốc. Và
Việt Nam hoàn toàn bị mắc mưu, trở thành tay sai giết người thay cho Trung
Quốc, cũng như bộc lộ nhiều thông tin về an ninh cửa khẩu cho Trung Quốc.
Sự kiện 16 người Duy Ngô Nhĩ ở Việt Nam, được tóm
tắt như sau. Vào khoảng 12 giờ trưa ngày 18/4. Trong lúc chờ làm thủ tục hải
quan ở cửa khẩu Quảng Ninh. Công an cửa khẩu Việt Nam đã bất ngờ đưa những
người này sang phòng làm việc riêng, giam lỏng và thông báo rằng tất cả tạm
thời bị giữ lại, chờ xe đưa sang biên giới trao trả cho công an Trung Quốc vì
nhập cảnh trái phép, cũng như vì có yêu cầu chính thức bằng điện thoại từ Trung
Quốc. Bất ngờ, 4 người đàn ông trong nhóm 16 người Trung Quốc đã chọn cách không
chịu trao trả về Trung Quốc đã xông vào cướp súng AK của những công an đang
canh gác họ. Số khác thì bẻ gãy chân bàn, cố thủ đòi phải được tự do.
Theo lệnh của chỉ huy cửa khẩu, an ninh cửa khẩu nổ
súng tấn công. Những người Duy Ngô Nhĩ bắn trả nên một công an chết tại chỗ.
Một công an khác chết sau đó ít phút.
Bộ đội được điều tới. Thấy không còn đường sống nên
những người Duy Ngô Nhĩ đã tự sát bằng cách nhảy lầu hoặc tự bắn vào mình.
Thông điệp của những người này rất rõ ràng “tự do hay là chết”.
Theo mô tả của sĩ quan an ninh giấu tên, một trong
những phân tích của an ninh Quân đội CSVN cho biết rằng Hà Nội đã hoàn toàn mắc
mưu Trung Quốc trong sự kiện này.
Thứ
nhất là Trung Quốc đã mượn tay Việt Nam giết những người
Duy Ngô Nhĩ này. Dù biết rõ và kiểm soát những người Duy Ngô Nhĩ này đi đâu,
làm gì, nhưng Trung Quốc không ra tay và chỉ thông báo, ra lệnh cho Việt Nam
hành động khi những người này ở trên đất Việt Nam. Sự kiện đau thương này diễn
ra, như là một thông báo ngầm cho những người Duy Ngô Nhĩ muốn trốn khỏi chế độ
CS Trung Quốc rằng chọn ngã đường Việt Nam thì chỉ có cái chết.
Thứ
nhì, trong việc đẩy những người Duy Ngô Nhĩ vào cuộc
đánh trả – mà Bắc Kinh vốn biết đây là những người nhất quyết liều chết đi tìm
tự do – nhằm kiểm tra khả năng kiểm soát an ninh và bộ đội cửa khẩu Quảng Ninh
nói riêng, Việt Nam nói chung. Tình hình cho thấy an ninh yếu ớt, khiến 2 lính
bị chết là một phác đồ rõ cho Trung Quốc thấy thực lực của Việt Nam. Giả như
một cuộc chiến tranh 1979 tái diễn, Bắc Kinh hoàn toàn có thể đo được thực lực
của cuộc chiến hỏa tốc, sẽ như thế nào.
Thứ
ba, trong việc Hà Nội đang đi dần đến các hiệp ước
thương mại và quốc tế có khuynh hướng dân chủ và tách ra khỏi Bắc Kinh, sự kiệm
thảm sát này sẽ là một vết nhơ khiến con đường bắt tay với các quốc gia tự do
phương Tây gặp nhiều khó khăn hơn.
Nội bộ của Hà Nội đang rối bời về chuyện này. Sáng
ngày 19 tháng 4, tất cả các báo chí nhà nước đều nhận được lệnh của ban tuyên
giáo là không được gọi những người Duy Ngô Nhĩ bị thảm sát bằng hai chữ “Tân
Cương”, nhằm tránh sự quan tâm của dân chúng về tình hình bất mãn chính quyền,
từ các vùng đất do cộng sản kiểm soát.
Văn
Phan
------------------------------
Tin
Liên Quan
No comments:
Post a Comment