Posted on January 24, 2014 by Jonathan London
Không quốc gia nào có kinh nghiệm nhiều với Trung
Quốc như Việt Nam. Thể giới có thể học được gì từ kinh nghiêm của Việt
Nam? Ngược lại, Việt Nam có thể học được gì từ thế giới và các nước trong khu
vực về cách đề cập tình trạng của ngày nay? Đối với Việt Nam, việc duy
trì một quan hệ ổn định và thân thiện tối thiểu với Bắc Kinh đã và đang đặt ra
những thách thức khó khăn và không ngừng nghỉ.
Từ trước đến nay, dù nghĩ gì về Trung Quốc và dù bị
Trung Quốc cái đó cái kia, hai nước Việt-Hán đã và sẽ tồn tại cạnh nhau. Các
lãnh đạo của Việt Nam đã biết từ đầu rằng trở thành kẻ thù của một quốc gia có
nguồn lực khổng lồ là không khôn khéo. Song, từ trước đến nay, dân Việt Nam
không bao giờ hy sinh quyền lợi chính đáng của đất nước. Nếu có thì mất nước
ngay.
Chúng ta cần xác định rõ, Việt Nam và toàn khu vực
cần và hưởng lợi từ một mối quan hệ ổn định và hòa bình với Bắc Kinh. Dù vậy,
toàn khu vực và toàn công đồng Thái Bình Dương đang đối mặt với một hoàn cảnh
báo động xuất phát từ việc Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền gần như toàn bộ biển
Đông.
Vấn đề đặt ra là Hà Nội và toàn công đồng quốc tế có
thể làm gì khi những đòi hỏi từ Bắc Kinh ngày càng trở nên không thể đáp ứng
nổi? Khi chiều hướng và cách hành xử của các ngài ở Bắc Kinh là chà đạp luật
pháp quốc tế và vi phạm chủ quyền và quyền lợi của các quốc gia láng giểng một
cách trắng trợn như vậy? Đây chính là vị trí không thoải mái mà Hà Nội đang
phải đối mặt ngày hôm nay; một vị trí mà, bất chấp nguồn gốc xác thực của nó,
và bất chấp phương châm “bốn tốt, 16 chữ vàng” vẫn phải đối mặt và đề cập. Đúng
chuyện này không chỉ là riêng của lãnh đạo Việt Nam mà của cả Châu Á Thái Bình
Dưong.
Xin nhắc lại, trong những thập kỷ 70, 80, 90 Bắc
Kinh đã lấy những biển đảo thuộc chủ quyền chính đáng của Việt Nam từ lâu một
cách bạo động và hoàn toàn bất hợp pháp. Và xin nhắc lại, trong những năm găn
đây, Bắc Kinh đã tuyến bố một cách hoàn toàn bất chính đáng là hầu hết lãnh thổ
trong Biển Đông Nam Á thuộc chủ quyền của họ. Gần đây nhất, trong mấy tuần vừa
rồi, chính quyền Trung Quốc ở Hải Nam và ở Bắc Kinh đã công bố ý định của họ là
thực thi những tuyên bố chủ quyền không hợp lệ trên gần như toàn bộ khu vực
biển Đông. Khu vực được đề cập đến trong những tuyên bố không có thật này bao
gồm những hòn đảo và mỏm đá đang tranh chấp, một phần đặc khu kinh tế 200 hải
lý của các quốc gia lân bang, và vùng biển quốc tế. Tuyên bố rằng tất cả những
tàu đánh cá không phải của Trung Quốc đều phải xin phép chính quyền Trung Quốc
để được hoạt động tại vùng biển quốc tế là hoàn toàn bất hợp pháp. Như
nhiều nhà phan tích đã nêu rõ, nếu tuyên bố này được thực thi, điều này tương
đương với cướp biển nhà nước.
Đối với Việt Nam, Philippine, và các nước khác, sự
từ chối ngầm của Bắc Kinh đối với những tranh chấp về đảo, mỏm đá, và biển là
hết sức đáng tiếc cũng như là bất hợp pháp. Song, khẳng định thế không thể nào
giúp Việt Nam tìm được một giải pháp. Vậy giải pháp ở đâu?
Trong một kịch bản tốt nhất có thể thì Bắc Kinh sẽ
dần rút lại những tuyên bố ngoại cỡ của mình và làm việc hướng tới một thỏa
thuận đa phương trên tinh thần hữu nghị, hợp tác và vì thịnh vượng của khu vực.
Rất tiếc là vào lúc này có vẻ rất khó tưởng tượng
một thay đổi như thế. Hiện nay, không có quốc gia nào có thể một mình thuyết
phục Bắc Kinh ứng xử hợp lý hơn, và tuân thủ luật pháp hơn trong hành vi của
mình. Vì thế có nhiều người cho rằng đã đến lúc phải có một nỗ lực có sự phối
hợp của nhiều quốc gia, bất chấp sự khăng khăng của Bắc Kinh rằng thương thảo
đơn phương là đủ để giải quyết vấn đề. Theo quan điểm này, trong tình trạng
hiện này, thương thảo đơn phương không phù hơp khi toàn khu vực đang bị đe dọa.
Hãy quay lại với Hà Nội. Lãnh đạo Việt Nam có thể
làm gì, khi họ phải đối mặt với những tuyên bố vô lý từ bên ngoài và những đòi
hỏi ngày càng tăng của người dân trong nước đòi lên tiếng? Trong quá khứ, Việt
Nam đã phải luôn luôn đối phó với nước hàng xóm hung hăng một mình, qua những
cuộc thương thảo bí mật và bắt tay cá nhân, thậm chí không có sự tham gia của
ngành ngoại giao Việt Nam. Trong lúc mà con ruột của Nguyễn Cơ Thạch đang ngồi
ghế Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, trong lúc mà những quan hệ quốc tế của Việt Nam đã
phát triển rất mạnh, thời đại của những bí mật và dọa dẫm đã đi vào quá khứ
chưa? Câu trả lời, phải nói, là chưa rõ.
Dù muốn tìm hiểu những thách thức chung của Hà Nội
và các nước trong khu vực về quan hệ quốc tế với Bắc Kinh, cũngh phải thừa nhận
vị trí của Việt Nam, ngay bên cạnh Trung Quốc, tất nhiên có những bảo hàm đặc
biệt, cũng như sự phức tạp trong nội bộ Đảng Công Sản Việt Nam đối với Trung
Hoa. Từ bên ngoài, những dân thường rất khó nắm bắt những quan điểm, phương án
đạng được bàn luận ở Hà Nội hiện nay. Vì thế, đến bây giờ, rất khó cho bất cứ
ai cả để hiểu sâu về những vấn đề cụ thể, đặc biệt trong bối cảnh những cuộc
thảo luận công khai về hồ sơ Biển Đông gần như bị cấm.
Thông điệp chính thức rõ nhất về chiến lược khư vực
của Việt Nam lại chưa rõ lắm. Rất có thể đó là bài phát biểu của Nguyễn Tấn
Dũng tại diễn đàn Shangri-la vào năm ngoái ở Singapore. Trong dịp đó, Thủ tướng
đã phát biểu một cách hùng hồn với các nhà lãnh đạo khu vực về sự cần thiết cho
một kỷ nguyên của “niềm tin chiến lược”. Mặt khác, đối với những người
ngoài khu vực Đông Nam Á, và thậm chí những người trong khu vực có đầu óc hoài
nghi, ‘chiến lược’ này nghe có vẻ mơ hồ, không khác gì sự kêu gọi một tình hàng
xóm láng giềng hòa thuận. Có chăng là, bốn chữ ‘niềm tin chiến lược’ phản ánh
nhận thức của Hà Nội và toàn thế giới cần có một tình thế cả tôn trọng lẫn
giữ thể diện mà không biện hộ đối với Bắc Kinh trước mặt những căng thẳng trong
khu vực đang leo thang. Ngôn ngữ ngoại giao là như thế.
Dạo này, ta cũng có thể hỏi, ‘niềm tin chiến lược’
của Việt Nam sẽ có nghĩa gì khi nó hoàn toàn đối ngược với chủ trương
“sự không rõ ràng chiến lược” (strategic uncertainty) và hành vi đế quốc
mà Trung Quốc đang áp dụng ở mọi lĩnh vực và nhất là ở trên biển? Nếu sự tin
tưởng đã mất thì chiến lược sẽ ra sao?
Toàn thể giới nhìn rõ ràng rằng những căng thẳng
đang bộc lộ xung quanh vấn đề vùng biển Đông Nam Á chủ yếu là do những hành
động đáng lo ngại của Bắc Kinh gây ra. Nếu đây là điều mà Bắc Kinh cho là
“sự trổi dậy hòa bình”, chúng ta đều có nhiều lý do để lo lắng nữa.
Làm sao giúp Bắc Kinh nhìn thấy và nhận thức những
điều này và thay đổi đường lối? Không có cách nào dễ dàng cả. Dù Hà Nội
có lên án tuyên bố bất chính đáng của Trung Quốc về việc ‘phải xin phép đánh
cá,’ một phản ứng như thế rất khó có thể có hiệu quả.
Đúng vậy, dạo này càng nghe những người hỏi, làm sao
để Bắc Kinh phải đối mặt với một diễn đàn đa phương? Hoặc các quốc gia Thái
Bình Duơng hợp lực thúc ép Trung Quốc chịu quyết định của toà án quốc tế. Xin
nhấn mạnh, mục tiêu chẳng phải là ngăn chận lại Trung Quốc, mà là sống trên một
thể giới với tinh thần hòa bình, hữu nghị, hợp tác, ổn định, hợp pháp. Thế
thôi.
Để đề cập vấn đề một cách thực tiễn đã có một số
người cho rằng Hà Nội nên hoán đổi những nhận định khó có thể phòng vệ
như “chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là không thể
bàn cãi” và “tất cả những hoạt động nước ngoài trên những khu vực này nếu không
có sự chấp thuận của Việt Nam là trái phép và vô căn cứ” sang một chính sách rõ
ràng hơn để thu thập sự ủng hộ rộng lớn hơn từ những nhà họ giả trong khu vực
Động Nam Á hoặc bên ngoài, tạo nền tảng cho một chính sách chung cho các nước
Đông Nam Á và khu vực.
Liên quan đến nó, có quan điểm là trước khi đề cập
đến những đòi hỏi bất chính đáng của Bắc Kinh, Việt Nam phải sớm giải quyết
những tranh chấp với Philippine, Malaysia, v.v. trước đã. Cũng có nhiều người
khuyên nên đem vấn đề này đến UNCLOS, một hiệp định mà Bắc Kinh
đang loan báo sẽ rút khỏi nếu bị tiếp tục lên án. Và có rất nhiều dân thường ở
Việt Nam đã và đang muốn đống một vài trò tích cực để bảo vệ đất nước. Dù tôi
không ửng hộ việc không cho dân bày tỏ vọng sự quan tâm của họ, tôi hy
vọng dân thường Việt Nam hiểu phải tránh những hành vi chủ nghĩa quốc gia cực
đoan như ta thấy ở một số nước.
Nếu những phương nêu trên chưa hấp dẫn, còn có những
bước đi khác nữa. Có người cho rằng Hà Nội nên tỏ rõ với Bắc Kinh rằng họ sẽ
không bắt tay hợp tác quân sự với bất kì quốc gia nào gây bất lợi cho những mối
bận tâm chính đáng của Bắc Kinh (như đòi chủ quyền trên gần hết Biển Đông Nam
Á), nhưng Hà Nội sẽ sẵn sàng hỗ trợ hay tham gia các liên minh để bảo vệ quyền
lợi chính đáng của mình bao gồm sử dụng hoà bình lãnh thổ hàng hải quốc tế
trong khu vực. Để đầy mạnh mục tiêu đó, Hà Nôi nên phát triển mạnh hơn nữa
những mối quan hệ trọng yếu, với Mỹ, Nam Hàn, Nhật, v.v. Đồng thời, tiếp tục nỗ
lực nữa để tìm được với Bắc Kinh một giải pháp cả hai bên và các bên khác có
thể chấp nhận được; và sẽ giữa hữu nghị và hợp tác toàn diện với điều kiện là
không có hậu quả bán nước hay hy sinh những quyền lợi quốc gia.
Chúng ta đang sống trong một thế giới càng ngày càng
nhỏ bé hơn. Và toàn khu vực Đông Nam Á Thái Bình Dương đang ở một ngã ba đường.
Tuyên bố chủ quyền bất chính đáng về những lãnh thổ biển quốc tế không thể chỉ
được xem như là một vấn đề song phương cũng như việc coi quá nhẹ luật quốc tế
trong việc tiếp cận tranh chấp khu vực. Toàn công đồng đang bị đê dọa.
Việt Nam là một quốc gia biển. Và dân Việt Nam, cũng
như dân ở bán đảo Triều Tiên sẽ sống bên cạnh Trung Quốc mãi. Hỏi tôi, muốn có
một vị trí mạnh hơn, Việt Nam nên nỗ lực để theo con đường của Hàn Quốc càng
sớm càng tốt. Một nước văn minh, pháp quyền, dân chủ, và có ửng hộ của quốc tế
sẽ luôn luôn sống an toàn hơn, tự tin hơn. Khiêu khích, ảo tưởng, mất tính xây
dựng? Hy vọng là không.
JL
No comments:
Post a Comment