Lê Giang
Trần
Posted on January 8, 2014 by Khe Sanh
Vài
lời nói trước: Người viết về câu chuyện này may mắn là bạn của 3
người trong nhóm vận động dựng cột cờ, nên đã được biết khá rõ ràng. Trong phạm
vi giới hạn một bài viết, người viết chỉ vắn tắt, cốt yếu nhấn mạnh về ý nghĩa
của cột cờ đầu tiên do chính người Việt Nam tị nạn dựng lên, hơn là chi tiết
chính xác sử liệu. Rất mong độc giả chia sẻ, cũng như các nhân vật trong cuộc
cảm thông bỏ qua những thiếu sót. Bài viết này được viết riêng cho chuyên mục
“Người Việt, 30 Năm Tị Nạn và Định Cư” như một đóng góp nhỏ bé trong việc ghi
lại quá trình thành hình và phát triển của cộng đồng Việt Nam tại Little
Saigon.
1981, năm Con Gà, trong một bài phóng sự của tờ LA
Times do một nữ phóng viên gốc Trung Hoa viết về nơi phố thị Bolsa, bà đã ví
von nơi này như là một “Little bit Saigon”. Dần dà người ta bỏ đi chữ bit,
“Little Saigon” định danh từ đó. Nhìn lại, 24 năm, sang năm 2005 Ất Dậu là 3
con gà. Chợt nhớ Ất Dậu 1945 ngày xưa ở Việt Nam…
Năm 1982 là năm định hình cho một phố thị Việt Nam
tại quận Cam, con đường huyết mạch chính là Bolsa Ave với khoảng 100 cửa hàng
Việt Nam mọc lên lúc bấy giờ. Tuy nhiên, chưa nhộn nhịp hẳn vì hãy còn những
khoảng đất vườn dâu, vườn cam, vườn rau nằm rải rác hai bên đường. Một chợ thực
phẩm duy nhất là chợ Hòa Bình nằm cùng dãy với quán Café Le Crossand D’orée.
Ít người biết rằng, không phải con đường Bolsa khai
sinh ra nơi tập trung buôn bán, mà khởi đầu là trên con đường Wesminster, gần
đến đường Golden West đã có ngôi chợ Việt Nam, chợ Quê Hương, đầu tiên tại đấy
cho mãi đến 1982 vẫn còn, và rải rác dọc trên con đường này từ năm 1977 đến
1982 nhiều cửa hàng đã thành hình. Nhưng kể từ khi MiNi Mall (khu nhà sách Tú
Quỳnh, nhà hàng Thành Mỹ) thành hình trên đường Bolsa, rồi Nguyễn Huệ, rồi khu
nhà hàng Song Long nối tiếp, hầu hết các tiệm ở đường Wesminster cũng lục tục
dọn qua khu tập trung mới trên đường Bolsa. Chợ Quê Hương đổi chủ rồi cũng bị
chợ Hòa Bình hút hết khách nên ế ẩm và đóng cửa, chấm dứt thời kỳ phôi thai
kinh doanh trên con đường Westminster bất hạnh.
Trong sự thành hình của con phố Bolsa, sau 30 năm,
dân Việt cư kỳ cựu ở vùng đất này nên nhắc đến một sự việc có tầm vóc tinh thần
rất lớn đối với người Việt tị nạn sinh sống tại Little Saigon mà có lẽ theo
thời gian đã chìm vào quên lãng, những người đến Little Saigon định cư sau này
có thể cũng không nghe ai kể lại. Đó là cây cột cờ Việt nam đầu tiên được dựng
lên tại khu thương xá Nguyễn Huệ, nơi có nhà hàng Đồng Khánh và phở Nguyễn Huệ.
Nơi đây, lá quốc kỳ Việt Nam được phép chính thức treo phất phới trên nền trời,
khẳng định và đại diện cho một dân tộc, một quốc gia, một sắc dân tị nạn Cộng
sản đến định cư trên đất nước Hoa Kỳ. Lá cờ tượng trưng cho hồn thiêng sông
núi, tiêu biểu cho một giá trị lịch sử đã được gìn giữ và hy sinh bằng biết bao
xương máu cho lá cờ ấy, lá cờ Vàng Việt Nam biểu tượng của một dân tộc có tự do
đã bị cướp đoạt. Họ hoặc vượt thoát hoặc bị xua đuổi khỏi quê nhà và chỉ mang
theo một ấn chứng duy nhất là lá cờ của dân tộc họ, lá quốc kỳ xác định một
quốc gia mà thế giới đã công nhận.
Trước năm 1989, là năm cộng sản Việt Nam mở cửa mời
đón kiều bào về thăm quê hương, trước đó đối với người Việt tị nạn tại hải ngoại,
quê nhà chỉ còn có trong tâm tưởng, không biết đến bao giờ mới trở về lại cố
hương.
Năm 1984, một phóng viên tờ LA Times đăng bài phóng
sự về chuyến đến thăm Little Saigon, ông nêu lên nhận xét “Little Saigon không
chỉ là một trung tâm thương mại, đối với tôi, Little Saigon là trung tâm của
quá khứ và một lịch sử được mang theo từ Việt Nam…”
Thực vậy, Little Saigon được xem là “thủ đô tị nạn”,
một nơi có sinh hoạt chính trị mạnh mẽ, đồng thời tập trung hầu hết các văn
nhân nghệ sĩ về đây sinh sống, đã tạo cho Little Saigon có một sắc thái đô thị
đặc biệt, thu hút không riêng du khách Việt, du khách ngoại quốc cũng tò mò tìm
đến viếng thăm nơi gọi là “Vietnamese Town”.
Trở lại, vào cuối năm 1984, một số quân nhân đứng
lên lập nhóm để vận động với chính quyền thành phố Wesminster, xin được dựng
cột cờ treo lá quốc kỳ Việt Nam tại khu thương xá Nguyễn Huệ. Nhóm này gồm năm
người:
Khoảnh đất dựng cột cờ đã xin được của chủ phố là
ông Triệu Phát. Mọi thứ được tiến hành trong hồi hộp nôn nao nhưng bằng tinh
thần của quân đội, quả quyết, tự tin, danh dự. Tại sao hồi hộp? Đấy là khoảng
thời gian tinh thần chống cộng ở cao điểm, thành phần cộng kiều trà trộn hoạt
động ngầm trong cộng đồng Việt Nam thì luôn nằm trong bóng tối, họ theo dõi mọi
sinh hoạt của cộng đồng tị nạn. Theo thống kê của chính quyền Orange County
thời đó, mức quan tâm về tội phạm băng đảng trong cộng đồng Việt Nam không phải
là con số nhỏ (số thống kê vào năm 1989 là 41%). Thời đó, chuyện nổ súng thanh
toán trong hàng quán, vũ trường gần như là chuyện thường tình. Đối với quân
nhân thì xem là trò trẻ con, nhưng tình huống nổ súng bất ngờ không biết ai là
ai, đáng phải đề phòng.
Khi tin tức dựng cột cờ được công khai phổ biến thì
có truyền đơn rơi, thư hăm dọa phóng vào nhóm quân nhân khởi xướng tổ chức dựng
cột cờ. Cường cụt đã nhiều lần được dán “note” vào kiếng xe anh với lời lẽ đại
ý “Hãy bỏ ý đồ ngu xuẩn dựng cột cờ, thời thế đã thay đổi, đã hết thời của các
anh v.v…” Vì những hăm dọa được tung ra tới tấp từ trong bóng tối như vậy, nhóm
dựng cột cờ phải lưu tâm đề phòng, một mặt vẫn tiến hành việc làm của họ.
Ngày 18 tháng 3 năm 1989 Lễ Thượng Kỳ được tổ chức.
Nhóm dựng cờ gửi thư mời đại diện các tổ chức chính trị, hội đoàn, đặc biệt là
các tướng lãnh, các sĩ quan cao cấp trong quân đội hiện đang sống trong vùng
hoặc lân cận. Ngày Lễ ấy có hai vị tướng đến chứng kiến là Tướng Nguyễn Ngọc
Oánh ở Fressno về và Tướng Nguyễn Bảo Trị. Nhóm có mời được Hội Cựu Chiến Binh
Hoa Kỳ đến dự. Từ San Jose, nguyên Đại Úy Không Quân Lại Thế Hùng xuống để điều
hợp Lễ Thượng Kỳ.
Hình : http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2014/01/101-littlesaigon-cot_co_dau_tien.jpg?w=640
Đêm trước ngày thượng kỳ, Cao Xuân Huy trải “nốp”
sleeping bag dưới chân cột cờ ngủ giữ vì cộng kiều tung thư hăm dọa sẽ ủi sập
cột cờ. “Nằm đó, nó ủi thì mình chết trước” Cao Xuân Huy nói rồi cười khẩy,
tiếp “Bộ tui để nó ủi khơi khơi dễ dàng à! ĐM, tui hổng biết làm gì tụi nó à?”
Lữ Mộc Sinh thì nổi máu con gà điên pollo loco, thề nặng “Tui mà không kéo lá
cờ lên được thì tui chặt bàn tay tui dưới cột cờ rồi kéo nó lên”.
Đêm đó, ngoài một số quân nhân tự nguyện âm thầm
thức suốt đêm canh giữ, còn có một số “anh em Bolsa”, những tay thứ thiệt, cũng
ngấm ngầm lập vòng đai, đặt điểm trong các quán gần đó để “coi thằng nào lạ mặt
nhốn nháo là hỏi giấy, ĐM, VC là tụi em thịt liền”. Rõ ràng là một đêm dài căng
thẳng. Làm sao mấy quân nhân ấy không thủ “giò gà”. Đêm rồi qua, chỉ có mấy con
mèo hoang quậy kêu ngoài thùng rác giấc khuya.
Sáng ngày thượng kỳ, các quan khách, tướng lãnh đứng
trên lan can lầu, trước văn phòng Luật Sư Trần Sơn Hà nhìn xuống. An ninh toàn
khu vực đã được kín đáo trấn thủ chặt chẽ, kể cả bên kia đường, ngã tư đường.
Cường cụt ngồi xe lăn, dưới hai chân cụt, cây UZI sẵn sàng. Hai tay nghiêm
trang nâng lá quốc kỳ xếp thẳng băng vàng rực, cùng với lá quốc kỳ hoa sao Mỹ.
Quân nhân Hổ, cụt một chân, đẩy xe lăn cho Cường cụt hai chân. Lại Thế Hùng
điều khiển nghi lễ Thượng Kỳ. Tony Diamond kéo quốc kỳ Việt nam lên, Cường cụt
kéo quốc kỳ Mỹ lên. Theo quy định cho phép, lá quốc kỳ Mỹ phải treo cao hơn
quốc kỳ Việt Nam vì là cờ quốc gia chủ. Cường cụt lúc thượng kỳ quá xúc động,
lòng yêu nước tăng lên sao ấy, chỉ kéo cờ Hoa Kỳ bằng ngang cờ Việt Nam. Vậy
mới có chuyện.
Đám phản chiến Mỹ bỗng xuất hiện sau đó, đòi cắt dây
hạ cờ Việt Nam xuống vì đã dám kéo cao bằng ngang cờ Mỹ. Nhóm đại diện Cựu Quân
Nhân Mỹ bèn can thiệp. Nhóm dựng cờ phải theo luật định, nhích lá cờ Việt Nam
xuống thấp nửa lá cờ Mỹ. Tạm êm chuyện. Cộng kiều có lẽ nhận được chỉ thị mới,
bất động, không thấy cho xe đến ủi, không thấy bắn sẻ, không pháo kích, không
đặt plastic hay gài mìn claymort, chỉ có gió xuân thoang thoảng mùi hoa trúc
đào và trên cao gió lộng, lá cờ vàng tung bay phần phật. Lần đầu tiên nơi hải ngoại,
lá cờ của hồn thiêng sông núi Việt Nam vươn mình uốn lượn như con rồng tung
mình vờn gió xuân.
Một cụ già mù có người con trai đưa đến dự lễ, khi
lắng nghe có tiếng phần phật cờ reo, ông níu cánh tay người con hỏi: “Cờ đã kéo
lên được chưa con?” “Dạ, kéo lên xong rồi Ba”. Cụ già bật khóc nức nở, gương
mặt không còn ánh sáng đôi mắt lộ đầy xúc động mếu máo, bàn tay run run vịn
chặt vai người con trai bên cạnh, anh cũng rưng rưng theo nỗi niềm của người
cha. Cao Xuân Huy tình cờ đứng gần, chứng kiến, quay vội vào tường cho giọt
nước mắt nóng hổi của mình lăn khỏi con mắt.
Bầu không khí trang nghiêm long trọng ấy, khi lá Cờ
Vàng Việt Nam tung bay trên nền trời Little Saigon, ai chứng kiến mà không vui
buồn lẫn lộn, xúc động ngậm ngùi hòa lẫn hãnh diện lâng lâng. Ôi phải 10 năm,
từ 1975 đến 1985, mười năm sau mới thực sự tận mắt nhìn thấy lại lá cờ oai linh
của đất nước Việt Nam tung bay cùng gió lộng. Thôi… âu cũng là niềm an ủi lớn
lao cho tâm trạng lưu vong trên đất khách quê người… cho ấm lòng chiến sĩ….
Nhà báo Du Miên cho biết, cột cờ Việt Nam tuy dựng
lên là được sự cho phép của City Westminster, nhưng dựng xong vẫn chưa có văn
bản chính thức. Sau khi dân Mỹ tại đây thấy cờ Việt Nam kéo lên, đã phản đối
mạnh mẽ lên cơ quan chính quyền thành phố, họ đòi hạ xuống, khiến City lúng
túng. Bấy giờ ông Trần Duy Hòe (thuộc Lực Lượng Đặc Biệt) phải xông xáo ra vào
city đòi hỏi phải có văn bản cho phép chính thức cho cây cột cờ đã thành hình.
Cuối cùng, một nghị quyết của chính quyền thành phố Westminster được ban hành,
chấp nhận trên pháp lý về sự hiện hữu hợp lý của cây cột cờ. Đó là công lao của
Ông Hòe và một số người thầm lặng cùng sát cánh với ông.
Vài hôm sau ngày thượng kỳ, dây cột cờ bằng nylon bị
cắt đứt, lá cờ chao đảo chới với như kẻ sắp chết đuối kêu cứu. Thay dây mới.
Lại bị cắt đứt. Kỳ này chúng ông thay bằng dây thép, siết bù lon lại, xem cộng
kiều các con làm sao. Lữ Mộc Sinh tập họp anh em Bolsa, giao phó: “Tụi anh đã
làm xong việc dựng cột và treo cờ. Đến phiên tụi em giữ cờ”. Như vậy, lá quốc
kỳ Việt Nam lành lặn tung bay cũng nhờ có một phần góp tay canh giữ của “anh em
Bolsa” thời ấy.
Những ngày kế tiếp sau ngày thượng kỳ, dưới chân cột
cờ liên tục được nhiều người mang đến những chậu hoa tươi bày kín khắp cả chung
quanh, bày tỏ niềm vui và lòng yêu kính lá quốc kỳ. Ngày 30 tháng 4 năm 1985,
sau hơn một tháng dựng cờ được tổ chức “Đêm Không Ngủ” dưới ngọn cờ vàng. Đêm
không ngủ đầu tiên dưới ngọn cờ quê hương thật là đầy ý nghĩa, thật đậm đà tình
người, thật vui và cũng siết ngậm ngùi khi thả hồn nhớ nghĩ về quê nhà, bên ấy
còn bao người thân ngóng chờ mòn mỏi, bên các trại tị nạn thì khổ cực, kêu cứu
tuyệt vọng…
Thêm một chi tiết. Nơi khoảnh đất dành cho cột cờ có
ngọn đèn đường đứng sát bên ngoài, nên nhìn vào cột cờ bị che khuất. Do hồn thiêng
sông núi xui khiến sao đó, xuất hiện anh Diệp Thanh Tùng, tự nguyện chờ nửa
khuya, mang xe cần cẩu lớn đến, cắt dây điện ra, dời cột đèn vào sâu trong sân,
nối dây điện lại cho đèn cháy bình thường. Hỏi ra, anh là nhân viên đang làm
trong Ty Điện Lực, thấy cột đèn che cột cờ coi chướng mắt không chịu nổi, bèn
nổi máu anh hùng, bứng cột đèn đi chỗ khác chơi. Làm xong việc, lặng lẽ ra đi.
Ai tin chuyện này có thể xảy ra, vậy mà đã xảy ra, mới thấy cây cột cờ linh
thiêng thật.
Từ 1985-1988, 3 năm liền tổ chức đêm 30 tháng 4 tại
khuôn viên nhỏ hẹp nơi chiếc cột cờ phất phới lá cờ vàng. Ba năm ấy, một quân
nhân Thủy Quân Lục Chiến là Huỳnh Minh Châu, người cao lớn, tính ít nói và hiền
lành, tự nguyện làm người thay cờ, giữ cho lá cờ luôn được lành lặn và rực rỡ.
Tiếp tục lặng lẽ bao năm trời đến ngày hôm nay, không biết đã có bao nhiêu tấm
lòng âm thầm nối tiếp duy trì gìn giữ để từng ngày từng đêm trên bầu trời Bolsa
vẫn không vắng bóng lá cờ. Ai biết? Ai thương?
Sau khi tin tức lan truyền về cột cờ đầu tiên ở hải
ngoại, có một vị là nhân viên của sứ quán Việt Nam ngày trước ở San Francisco,
đã liên lạc với nhóm dựng cờ để mang lá quốc kỳ Việt Nam treo ở tòa sứ quán mà
ông đang gìn giữ cẩn thận, mang đến bàn giao cho nhóm để treo lá quốc kỳ ấy
lên. Buổi lễ được tổ chức thật cảm động và trang nghiêm ở trung tâm sinh hoạt
Nguyễn Khoa Nam. Ông Trần Duy Hòe đại diện đứng ra nhận lá quốc kỳ.
Sau năm 1989, do Cộng Sản Việt Nam mở cửa, Việt Nam
dần dà không còn là một quê hương xa vời trong tâm tưởng như những năm về trước.
Vết thương lòng đã nguôi ngoai, dấu chân của lịch sử cát bụi đã lấp bằng. Những
lá cờ Việt Nam được dựng treo khắp nơi ở hải ngoại khắp thế giới, người Việt ở
hải ngoại nhìn những lá cờ treo quá quen mắt. Nhưng nếu ai là người chứng kiến
phút giây lịch sử khi lá cờ Việt Nam lần đầu tiên được kéo lên tung bay trên
bầu trời tị nạn nơi xứ người, mới cảm nhận được trọn vẹn sự linh thiêng, tôn
quý đối với một lá cờ được giữ gìn bằng biết bao xương máu của những vị anh
hùng vị quốc vong thân.
Sau năm 2000, tôi tưởng có lẽ chính mình cũng đã
quên đi. Bỗng một hôm, nhìn thấy hàng ngàn người Việt Nam tị nạn ngồi biểu tình
trong đêm lạnh, khi cùng nhịp, phất lên lá cờ vàng nhỏ bé trong tay, hàng ngàn
lá cờ nhịp nhàng đồng phất lên theo những cánh tay ấy đã khiến tôi nghẹn cứng
cả lồng ngực. Sức mạnh khủng khiếp của màu cờ đánh thức một cái gì bừng dậy
trong tôi. Tôi không hiểu là cái gì, nhưng tôi biết chắc, hồn thiêng sông núi
Việt Nam là một điều có thật, đừng quên.
Đến cuối năm 2004, sau gần 30 năm từ mốc lịch sử
1975, lá cờ hồn thiêng sông núi, lá quốc kỳ Việt Nam màu vàng ba sọc đỏ, riêng
tại Hoa Kỳ, đã được hầu hết các tiểu bang trên nước Mỹ công nhận là lá cờ của
người dân Việt Nam Tự Do, không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, đã vượt thoát ra
đi, đi tìm tự do và định cư trên khắp thế giới. Lòng đấu tranh kiên quyết gìn
giữ màu cờ dân tộc đã được đáp đền, đã được hồn thiêng sông núi Việt Nam, anh
linh của anh hùng tử sĩ hy sinh dưới lá quốc kỳ tự do ấy phù trợ cho tấm lòng
son sắt của dân tộc.
Khi nào bạn có dịp đi ngang qua cây cột cờ đầu tiên
dựng trên con phố Bolsa nơi Little Saigon, xin bạn gửi lên lá cờ vàng tung bay
ấy một cái nhìn trìu mến. Chính lá cờ Vàng ấy mới thực sự làm ấn chứng đầu tiên
cho cái thị tứ mà về sau, vào ngày 17 tháng 6 năm 1988 đã được chính quyền sở
tại công nhận chính danh “Little Saigon” (bảng hướng dẫn exit vào Little Saigon
đã được dựng trên freeway 22 trước khi vào exit Magnolia). vì nơi đây, đã trở
thành một thành phố được mệnh danh “Thủ Đô Người Việt Nam Tị Nạn”.
Lê
Giang Trần
---------------------------------------------
No comments:
Post a Comment