Thứ Ba, ngày 14 tháng 1 năm 2014
TSYG:
“Trong 30 năm
qua, những người cầm quyền Trung Hoa đã ba lần phản bội nhân dân Việt Nam”. Đó
là lời khẳng định đanh thép trong cuốn sách Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, một
văn kiện quan trọng của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
công bố ngày 4 tháng 10 năm 1979.
Đã nhận ra rằng bị Bắc Kinh phản bội ba lần đau đớn với giá đắt đến vô
cùng như thế, mà bây giờ vẫn phải cay đắng gọi bọn họ là những người bạn 4 tốt,
16 chữ vàng! Lịch sử từ ngàn năm trước cho đến ngày hôm nay chỉ rõ rằng: tham
vọng bành trướng, bá quyền đại Hán của giới cầm quyền Bắc Kinh ngày càng ngông
cuồng, quyết liệt và nham hiểm. Sẽ không có gì lạ, nếu còn bị Bắc Kinh phản bội
dài dài. Bao giờ mới sáng mắt đây?
Nhằm:
- Nhớ về những sự kiện đau thương của dân tộc trong quan hệ với Trung
Quốc,
- Kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa 19/1/1974 ,
35 năm ngày Trung Quốc phát động cuộc chiến tranh xâm lược ở Biên giới phía Bắc
Việt Nam 17/2/1979 và 35 năm chiến thắng Biên giới Tây Nam,
- Tưởng niệm và tri ân các Anh hùng Liệt sĩ đã hy sinh tính mạng và tuổi
thanh xuân của mình trong các cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược và
tay sai của chúng,
TSYG xin đăng lại Phần V của cuốn sách quí này:
CHÍNH
SÁCH BÀNH TRƯỚNG CỦA BẮC KINH
MỐI
ĐE DỌA ĐỐI VỚI ĐỘC LẬP DÂN TỘC
HÒA
BÌNH VÀ ỔN ĐỊNH Ở ĐÔNG NAM CHÂU Á
I
Việt Nam và Trung Hoa là hai nước láng giềng gần gũi, nhân dân hai nước
luôn luôn gắn bó, giúp đỡ, cổ vũ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc, vì lợi ích cách mạng của nhân dân mỗi nước. Nhân dân Việt Nam đã ủng
hộ nhân dân Trung Hoa về chính trị và tinh thần, có lúc đã phối hợp chiến đấu
cùng với nhân dân Trung Hoa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhân dân Trung
Hoa, mặc dầu còn có nhiều khó khăn, nhất là trong những năm đầu của nước Cọng
hòa nhân dân Trung Hoa, đã dành sự giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam trong
hai cuộc kháng chiến chống bọn đế quốc xâm lược.
Nhân dân Việt Nam rất quý trọng và luôn luôn giữ
gìn, vun đắp cho mối tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Hoa
đời đời bền vững. Nhân dân Việt Nam không hề xâm phạm độc lập, chủ quyền, lãnh
thổ của nhân dân Trung Hoa, không hề can thiệp vào công việc nội bộ của Trung
Hoa. Đối với những vấn đề bất đồng về quan điểm hoặc những hành động sai trái
do những người lãnh đạo Trung Hoa gây ra đối với Việt Nam, phía Việt Nam đã cố
gắng và bền bỉ tìm cách giải quyết bằng con đường thảo luận nội bộ giữa hai
bên.
Mặc dầu những người lãnh đạo Trung Hoa đang tâm phá
hoại tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước, nhân dân Việt Nam không
bao giờ quên sự giúp đỡ to lớn mà nhân dân Trung Hoa đã dành cho nhân dân Việt
Nam và rất mong muốn tình hữu nghị anh em giữa nhân dân hai nước sớm được khôi
phục. Trong các cuộc đàm phán để giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa hai
nước, phía Việt Nam luôn luôn xuất phát từ lòng mong muốn thiết tha đó của nhân
dân Việt Nam. Lập trường trước sau như một của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là sớm khôi phục quan hệ bình thường giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên những nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của mỗi nước và vì
lợi ích của hòa bình, ôn định ở Đông nam châu Á và trên thế giới.
II
Tóm lại, trong 30 năm qua, những người cầm quyền
Trung Hoa đã ba lần phản bội nhân dân Việt Nam:
1.
Tại Hội nghị Geneve năm 1954, họ đã bán rẻ lợi ích dân tộc của nhân dân Việt
Nam, không những để bảo đảm cho nước họ một vành đai an ninh ở phía nam, mà còn
chuẩn bị địa bàn cho việc thực hiện mưu đồ bành trướng ở Đông Dương và Đông nam
châu Á. Họ muốn duy trì tình trạng Việt Nam bị chia cắt lâu dài, hòng làm cho
Việt Nam suy yếu và phải phụ thuộc vào Trung Hoa.
2.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, khi chế độ Ngô
Đình Diệm bị sụp đổ thì họ bật đèn xanh cho Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam, đồng
thời đưa quân Mỹ trực tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam. Khi Việt Nam muốn ngồi
vào thương lượng với Mỹ để phối hợp ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao
thì họ ngăn cản. Khi nhân dân Việt Nam đang trên đà đi tới thắng lợi hoàn toàn
thì họ bắt tay với chính quyền Nixon, dùng xương máu của nhân dân Việt Nam để
đưa nước Cọng hòa nhân dân Trung Hoa lên địa vị “siêu cường thứ ba” và đổi chác
lấy việc giải quyết vấn đề Đài Loan.
3.
Sau khi nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam khỏi ách thống trị thực
dân mới của đế quốc Mỹ và thống nhất nước nhà, họ đã dùng mọi thủ đoạn chính
trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao để làm suy yếu nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, hòng khuất phục nhân dân Việt Nam, tiến đến dùng lực lượng quân sự
của bè lũ tay sai Pôn Pốt – Lêng xa ry xâm lược Việt Nam ở phía tây nam và lực
lượng quân sự của Trung Hoa trực tiếp xâm lược Việt Nam ở phía bắc, giết hại
nhân dân Việt Nam, phá hoại nghiêm trọng các cơ sở kinh tế, văn hóa của Việt
Nam ở các vùng có chiến sự.
Ba lần họ phản bội Việt Nam, lần sau độc ác, bẩn
thỉu hơn lần trước!
Đối với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, những
người cầm quyền Trung Hoa cũng đã phản bội độc ác và bẩn thỉu. Họ đã hy sinh
lợi ích dân tộc của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia tại Hội nghị Geneve năm
1954, Trong thời kỳ sau Geneve, họ ngăn cản nhân dân Lào và nhân dân Campuchia
đấu tranh cho độc lập dân tộc, hòa bình, trung lập. Khi nhân dân Campuchia hoàn
toàn giải phóng đất nước ngày 17 tháng 4 năm 1975, họ đã dùng bọn tay sai Pôn
Pốt – Lêng xa ry để thực hiện chính sách diệt chủng, biến nước Campuchia thày
một nước chư hầu kiểu mới, một căn cứ quân sự để từ đó tiến công nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở phía tây nam. Đối với nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào, họ phá hoại công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân Lào, trang bị và
giúp đỡ các lực lượng phản động ở Lào gây rối loạn, đưa nhiều sư đoàn áp sát
biên giới Lào – Trung, hòng ép nhân dân Lào đi vào quỹ đạo của Bắc Kinh. Họ
chia rẽ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, hòng làm suy yếu và thôn tính từng
nước.
Để che giấu bộ mặt phản bội của họ, những người cầm
quyền Bắc Kinh thường hay nhắc đến việc Trung Hoa viện trợ cho nước Việt Nam,
thậm chí khoe rằng quân đội của họ đã “chiến đấu ở Điện Biên Phủ”, v.v..
Nhân dân Trung Hoa đã dành một phần thành quả lao động của mình để giúp đỡ nhân
dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng đất nước, đó là điều mà
nhân dân Việt Nam, trong bất cứ tình huống nào, mãi mãi không bao giờ quên. Đối
với nhân dân Việt Nam, đó là biểu hiện cao đẹp của mối tình đoàn kết chiến đấu
của những người cùng chung cảnh ngộ, nhưng đối với tập đoàn phản động trong
giới cầm quyền Bắc Kinh đó là một công cụ chính trị để thực hiện chính sách
bành trướng của họ ở Việt Nam cũng như trên toàn bán đảo Đông Dương. Thực tế đã
chỉ rõ họ đã xử dụng viện trợ đó khi thì như “một củ cà rốt”, khi thì như “một
cái gậy”, tùy theo yêu cầu chính trị từng lúc của họ.
Vả lại, không chỉ có vấn đề Trung Hoa giúp đỡ Việt
Nam.
Những người lãnh đạo Trung Hoa đã nhiều lần nói rằng
nói đến cám ơn thì nhân dân Trung Hoa phải cám ơn nhân dân Việt Nam. Nhân dân
Việt Nam đã hi sinh nhiều, cống hiến nhiều đối với nhân dân Trung Hoa. Nhân dân
Trung Hoa phải cám ơn và có nghĩa vụ giúp đỡ, ủng hộ nhân dân Việt Nam. Nhân
dân hai nước giúp đỡ lẫn nhau.
Về việc Tổng thống Nixon đi thăm Trung Hoa năm 1972,
Chủ tịch Mao Trạch Đông đã nói với những người lãnh đạo Việt Nam tháng 6 năm
1973 như sau:
“Thành thực mà nói, nhân dân Trung Hoa, Đảng cộng
sản Trung Hoa và nhân dân thế giới phải cám ơn nhân dân Việt Nam đã đánh thắng
Mỹ. Các đồng chí chiến thắng mới buộc Nixon phải đi Bắc Kinh”.
Về việc nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào Liên
Hợp Quốc năm 1971, Thủ tướng Chu Ân Lai đã nói trong cuộc hội đàm với các nhà
lãnh đạo Việt Nam tháng 11 năm 1971:
“Cống hiến của Việt Nam rất lớn. Chúng ta gắn bó với
nhau”.
Lịch sử - và trước hết là quân đội viễn chinh Pháp –
đã trả lời rõ ràng câu hỏi: ai đã chiến đấu và chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm
1954? Điều cần nói thêm là trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, Chính phủ Trung Quốc có phái một số cố vấn sang Việt nam, và trong những
năm 1960 Bắc kinh có đưa sang Việt Nam một lực lượng gọi là “bộ đội hậu cần” để
giúp Việt Nam sửa những đoạn đường sắt và đường bộ giáp Trung Quốc bị bom Mỹ
phá hỏng và làm một số đường mới ở vùng biên giới hai nước . Nhưng mặt chủ
yếu họ làm là điều tra tình hình các mặt, thâm nhập những vùng có các dân tộc
thiểu số và tuyên truyền “cách mạng văn hóa”. Phần lớn những gián điệp và “bộ
đội sơn cước” mà phía Việt Nam đã bắt được trong tháng 2, tháng 3 vừa qua chính
là những tên “bộ đội làm đường” Trung Quốc trước đây.
Từ sự phản bội ở Hội nghị Giơ ne vơ năm 1954, việc
lợi dụng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cưu nước của nhân dân Việt Nam đến việc
dựng lên chế độ diệt chủng Pôn Pốt – Lêng xa ry, vũ trang xâm lược Việt Nam và
uy hiếp xâm lược Lào, tất cả đều do:
-
một
tư tưởng chỉ đạo:
|
chủ nghĩa đại dân tộc
|
-
một
chính sách:
|
ích kỷ dân tộc
|
-
một
mục tiêu chiến lược:
|
chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và chủ
nghĩa bá quyền nước lớn
|
Cụ thể là họ mưu toan thôn tính Việt Nam và toàn
bộ Đông Dương, lấy đó làm bàn đạp tiến xuống Đông Nam châu Á và từng bước
triển khai chiến lược toàn cầu của họ.
Để đạt mục tiêu và bành trướng bá quyền của họ-những
người cầm quyền Bắc Kinh đã nâng lừa dối và bịp bợm thành một quốc
sách, một thủ đoạn chiến lược.Về phương diện này, từ chỗ là
những người học trò của Gơ ben 1, họ đã trở thành người thầy
của Gơ ben. Họ gán cho người khác những điều mà họ muốn làm. Họ đổ vấy cho
người khác những điều mà chính họ làm. Họ dựng đứng sự việc, xuyên tạc tài
liệu, bóp méo lịch sử. Họ đổi trắng thay đen, đảo ngược phải trái và cứ thế mà
tuyên truyền bằng bộ máy thông tin khổng lồ và mọi phương tiện khác. Họ
giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội nhưng lại chống chủ nghĩa xã hội. Họ
hò hét chống chủ nghĩa đế quốc nhưng chính họ bắt tay với đế quốc Mỹ. Họ kêu la
phải chống hai siêu cường nhưng lại cấu kết với đế quốc Mỹ để chống Liên Xô. Họ
nói chống chủ nghĩa bá quyền, nhưng chính họ mưu toan thực hiện chủ nghĩa bá
quyền ở Đông Dương và Đông nam châu Á. Họ đưa quân xâm lược nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nhưng lại vu cáo Việt Nam “xâm lược” Trung Quốc. Họ tỏ
vẻ “bảo vệ nhân quyền”, quan tâm đến “những người Đông Dương di tản”, nhưng chính
họ đã giết hại hàng triệu người Trung Quốc trong cuộc “đại cách mạng văn hóa”,
đã xúi dục hơn 20 vạn người Hoa bỏ Việt Nam đi Trung Quốc. Đối với những người
cầm quyền Bắc Kinh, luận điệu của họ là chân lý, lợi ích của họ là đạo lý.”Quan
châu được đốt đèn, dân đen không được nổi lửa”, câu nói đó của những người nông
dân Trung Quốc dùng trước đây để chỉ trích sự áp bức của bọn bạo chúa phong
kiến đã trở thành phương châm của những người cầm quyền Bắc Kinh hiện nay nhằm
thực hiện tham vọng bành trướng và bá quyền của họ.
1. Gơ-ben
là Bộ trưởng tuyên truyền của Hit le. (BT)
Hiện nay những người lãnh đạo Trung Quốc đang ra sức
nêu cao ngọn cờ đại dân tộc để tập hợp các phe phái, thực hiện kế hoạch “bốn
hiện đại hóa”. Về đối ngoại, họ ra sức thực hiện chính sách bành trướng ở Đông
Dương và Đông nam châu Á, cấu kết với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động khác, trước hết là với Mỹ, chống Liên Xô và cách mạng thế giới, với hy
vọng tranh thủ được nhiều vốn và kỹ thuật hiện đại của phương tây, phục vụ cho
“bốn hiện đại hóa”. Và mưu đồ bành trướng và bá quyền của họ.
Một Trung Quốc bị đầu độc bởi tư tưởng đại dân tộc,
chủ nghĩa bành trướng và bá quyền của những người cầm quyền, bất kể phát triển
theo con đường nào, không phải chỉ đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, Đông nam châu Á và Nam Á, đe dọa hòa
bình, ổn định ở khu vực này, mà còn đe dọa lợi ích nhiều mặt của các nước khác,
kể cả các nước, vì lợi ích trước mắt, đang phụ họa với người cầm quyền Trung
Quốc chống Việt Nam, Lào và Cam pu chia. Một số người thức thời trong các nhà
chính trị và kinh doanh phương tây mới cảnh cáo chính phủ họ về hậu quả nặng nề
có thể xảy ra khi đất nước Trung Quốc lại lâm vào một cuộc khủng hoảng chính
trị nội bộ mới, nhưng họ chưa nói tới những hậu quả còn nặng nề gấp bội đối với
lợi ích của các nước trên thế giới, do chính sách bành trướng của những người
lãnh đạo Trung Quốc gây ra.
Trong
hàng nghìn năm qua, nước Việt Nam đã bị các hoàng đế Trung Quốc xâm lược hàng
chục lần, nhân dân Việt Nam hiểu rõ những ý đồ đen tối của những người lãnh đạo
Trung Quốc, cho nên không một phút nào là không cảnh giác đối với họ. Thậm chí trong lúc đế quốc Mỹ đẩy cuộc chiến tranh xâm lược lên đến
đỉnh cao nhất , nhân dân Việt Nam đứng trước những khó khăn chồng chất, nhưng
đã thẳng thắn khước từ những đề nghị của những người lãnh đạo Trung Quốc đưa
sang Việt Nam 20 vạn quân và số ô-tô cần thiết để đảm nhiệm việc vận chuyển
quân sự từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam . Nhân dân Việt Nam luôn luôn giữ
vững đường lới độc lập, tự chủ của mình không gì lay chuyển được, bất chấp sức
ép dù là che giấu hay công khai, gián tiếp hay là trực tiếp, của những người
cầm quyền Trung Quốc.
III
Mặc dầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2 năm 1979 đã thất bại
thảm hại cả về quân sự và chính trị, những người lãnh đạo Trung Quốc vẫn theo đuổi
chính sách điên cuồng chống Việt Nam bằng mọi thủ đoạn. Phía Trung Quốc vẫn giữ
thái độ nước lớn trong cuộc đàm phán về những vấn đề thuộc quan hệ giữa hai
nước, vẫn ngang ngược đe dọa “cho Việt Nam một bài học nữa”. Đồng thời họ tìm
cách khôi phục chế độ diệt chủng Pôn-Pốt – Lêng Xa ry đã bị nhân dân Cam pu
chia lật đổ hoàn toàn, đe dọa xâm lược nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, nhằm
duy trì sự uy hiếp từ mọi phía đối với Việt Nam.
“Không có gì quí hơn độc lập, tự do”. Nhân
dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững
đường lối độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế đúng đắn của mình, quyết đập tan
mọi hành động xâm lược của bất kỳ thế lực phản động nào, quyết làm thất bại mọi
mưu đồ bành trướng nhằm khuất phục nhân dân Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam có chính nghĩa, lại có sức mạnh vô
địch của khối đoàn kết toàn dân, kết hợp với sức mạnh của ba dòng thác cách
mạng vĩ đại đã và đang đẩy lùi từng bước các âm mưu can thiệp, nô dịch và xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dấn cũ và mới, chủ nghĩa bành
trướng, và chủ nghĩa bá quyền, ngày càng làm thay đổi bản đồ châu Á, châu Phi,
và châu Mỹ La tinh. Bọn bành trướng Bắc Kinh, nếu không sớm rút ra những kết
luận cần thiết từ sự thất bại từ chính sách chống Việt Nam vừa qua, thì nhất
định sẽ chuốt lấy những thất bại mới nặng nề hơn. Trong thời đại ngày nay, các
nước lớn nhỏ đều là bộ phận của một tổng thể duy nhất của xã hội loài người.
Bọn bành trướng Bắc Kinh không thể đụng đến Việt Nam mà không khiêu khích cả
loài người , không thách thức cả hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải
phóng dân tộc và mặt trận nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, các nước độc lập dân
tộc và nhân dân yêu chuộng hòa bình và chính nghĩa trên thế giới đã và sẽ đứng
về phía nhân dân Việt Nam.
Bằng
chính sách bịp bợm “thân xa đánh gần” của các hoàng đế Trung Quốc và
nhiều thủ đoạn xảo quyệt khác, những người cầm quyền Trung Quốc có thể còn che
giấu được bộ mặt bành trướng của họ trong một thời gian. Nhưng sớm muộn nhân
dân các nước ở Đông nam châu Á sẽ hiểu rằng chính sách thù địch của Bắc Kinh
chống Việt Nam đe dọa độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ không phải chỉ
của riêng Việt Nam, mà của cả các nước trong khu vực. Mọi người chắc chưa quên rằng Bắc Kinh đã dùng “đạo quân thứ năm”
người Hoa để gây rối loạn về chính trị, kinh tế ở nhiều nước thuộc Đông nam
châu Á trước khi áp dụng ở Việt Nam. Hiện nay trong lúc họ tập trung cố gắng để
chống Việt Nam, họ chẳng đang can thiệp một cách thô bạo vào công việc nội bộ
của nhiều nước khác ở châu Á đó sao ?
Những người cộng sản chân chính ở Trung Quốc, nhân
dân Trung Quốc trong ba mươi năm tồn tại của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
đã luôn luôn bị các tập đoàn thống trị lừa dối, sớm muộn sẽ nhận ra chân lý và
sẽ đứng về phía nhân dân Việt Nam, sẽ ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của
nhân dân Việt Nam.
Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam
chống chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của tập đoàn phản
động trong giới cầm quyền Bắc Kinh để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của mình, góp phần bảo vệ hòa bình và ổn định ở Đông nam châu Á và trên thế
giới tuy lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định sẽ thắng lợi vẻ vang.
Nước Việt Nam ngày nay sẽ đứng vững và tiếp tục phát
triển trước mọi mưu ma chước quỷ của những người cầm quyền Bắc Kinh, và cũng
như nước Việt Nam bốn nghìn năm qua đã đứng vững và phát triển trước những
cuộc xâm lược liên tiếp của các hoàng đế Trung Quốc.
Nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc nhất định
sẽ sống trong hòa bình, hữu nghị và hợp tác, hợp với nguyện vọng của nhân dân
hai nước và hợp với lợi ích của hòa bình ở Đông nam châu Á và trên thế giới.
Tháng 10 năm 1979
No comments:
Post a Comment