Giao Chỉ, San Jose
Cập nhật: 03/08/2013 11:32
Ði theo tiếng nước tôi để lại cho các ông chồng Mỹ ngơ
ngẩn với những chai nước mắm dở dang. Như vậy, nếu về chính trị và quân sự Mỹ
bỏ Việt Nam thì qua lãnh vực tình yêu và gia đình, đa số Việt Nam đều bỏ Mỹ.
Cali Today News - Ghi chú: Tháng 10 năm nay, tôi
đựợc báo Việt Luận mời qua Úc châu. Bạn thâm niên ở NSW có con bên San Jose bèn
hỏi rằng cái xứ Zôzê có gì lạ. Bác Phan Lạc Phúc định cư ở Úc đã từng ghé San
Jose nhưng chẳng nhớ được nhiều và cũng không nghĩ rằng sẽ có ngày trở lại. Bác
Thanh Thương Hoàng ở San Jose thì chỉ mong có ngày qua Úc thăm con trai. Bác Lê
Trung Hiền nói rằng qua Úc cho tôi hỏi thăm ông Phúc đại đội trưởng đầu tiên
của tôi ngoài Bắc thời kỳ 50. Nói là có thiếu úy Hiền ở San Jose vẫn có ý chờ.
Vũ Thế Quang cũng muốn đi từ DC xuống San Jose rồi qua Úc mà chẳng biết bao
giờ. Bác Văn Quang muốn đi từ Úc đến San Jose nhưng xem ra vô vọng. Các bạn già
loanh quanh các tiểu bang Hoa Kỳ không khó. Vượt thác Niagara qua Canada
cũng có thể. Nhưng tuổi cao niên đi Úc xem chừng khá vất vả. Vậy mà chúng tôi
có cơ hội cho chuyến đi cuối đời. Xin kể chuyện San Jose tặng báo Việt
Luận và độc giả ở miền dưới địa cầu. Tôi đã viết nhiều về "My hometown San
Jose"nay xin viết lại thật dài. Cũng xin gửi tặng các thân hữu đồng hương
đã cùng sống với nhau “Những ngày xưa thân ái” tại thành phố này. Kỳ này tôi
đem San Jose gửi đến Sydney.
Cali, ngày trở lại. Cách đây 37 năm gia đình chúng tôi
trở lại California vào tháng 8 năm 1976. Nói là trở lại Cali vì sau vụ di tản
tháng 4-75 chúng tôi đã đến Hoa Kỳ vào tháng 6-75 tạm cư ở Camp Pendleton rồi
ra phi trường Los Angeles bay về định cư ở miền Ðông. Ở Virginia được 1 tháng
thấy không êm, lại tự túc lấy xe đò Greyhound mà về với nhà thờ bảo trợ ở thị
trấn Springfield - thủ đô của Illinois. Sau một năm nếm mùi xứ lạnh cả nhà lại
cùng bè bạn tổ chức chuyến viễn du Tây Tiến để về ăn trợ cấp ở Cali. Đưa người
ta đi khai oenphe, sao nghe tiếng sóng ở trong lòng. Nắng vàng hiu hắt tên
thành họ, chờ đến hoàng hôn lãnh phút tem. Nếu hỏi rằng cái đất Cali huyền diệu
và hấp dẫn kéo dài cả ngàn dặm từ Bắc xuống Nam bao nhiêu là thị trấn, tại sao
chúng tôi lại cư ngụ tại San Jose. Câu trả lời chỉ là định mệnh. Thực sự đất
Cali vào cuối năm 76 ở đâu cũng có một số bạn bè nhưng bước chân tha hương đã
dừng lại đặt cọc tiền nhà ở cái Apartment đường số 7 thì San Jose chính là xóm
làng mới của chúng tôi. Thấm thoát đã gần 40 năm tại Hoa Kỳ và trong đó có 37
năm đơn vị Giao Chỉ đóng quân quanh quẩn ở một thị trấn.
Chúng tôi đã có cơ hội chứng kiến thị xã San Jose thay
đổi từ bộ mặt cũ kỹ của một thành phố nông nghiệp trải qua thời kỳ điện tử phát
triển. Với tháng ngày trôi qua, vườn nho và cánh đồng hoa vàng nay trở thành
xưởng máy.
Cộng đồng Việt Nam từ 3,500 người cuối năm 75 cho đến bây
giờ vào năm 2013 trở thành trên100 ngàn dân, chiếm hơn10% của đô thị đông đảo
thứ ba tại California sau Los Angeles, San Diego và qua mặt San Francisco.
Mới đây báo chí tỵ nạn có nhắc nhở đến một nhà văn Hà Nội
tên là Trần Văn Thủy, đi phỏng vấn các nhân vật hải ngoại và góp thành một cuốn
tiểu luận tựa đề là “Nếu đi hết biển”.
Trong đó có đoạn văn ẩn dụ rất sâu sắc kể rằng lúc còn
thơ ấu tác giả hỏi bà thím là nếu đi hết làng ta rồi đến đâu. Lời trẻ thơ với
các câu hỏi nối tiếp để bà thím trả lời rằng nếu đi hết làng ta sẽ đến làng
bên, rồi lên huyện, lên tỉnh rồi ra đến biển. Khi cậu bé hỏi rằng nếu đi hết
biển thì đến đâu, bà thím buồn rầu không trả lời được. Cậu bé Trần Văn Thủy lớn
lên đi năm châu bốn bể đã tìm được câu trả lời là đi qua các quốc gia, các đại
lục rồi sẽ trở về cố hương. Trong một bài tạp ghi tôi đã viết rằng tuy rất tâm
đắc ý kiến của tác giả nhưng vẫn thấy cần phải đưa ra một phản đề bởi vì tôi
cho rằng ông không hiểu hay là cố ý không muốn hiểu tâm tình của người tỵ nạn. Người du khách đi lang thang bốn
phương trời chân không bén rễ thì sẽ về lại cố hương. Nhưng lưu dân di tản tỵ
nạn như chúng tôi thì nơi nào an cư lạc nghiệp, nơi đó sẽ chính là quê hương.
Thực vậy, những năm đầu dù đã lập nghiệp, mua nhà, dựng vợ gả chồng cho con
cái, người lưu dân có khi vẫn tưởng mình ở cõi tạm dung. Rồi những năm tháng
dần qua, đất tạm dung chẳng biết đã trở thành quê hương mới từ lúc nào không
rõ. Vì vậy xin kể câu chuyện sau đây.
Chúng tôi có thằng cháu họ làm thợ máy ở Thủ Ðức. Bà chị
chúng tôi kiếm tiền cho nó vượt biên. Vài tháng sau có thơ từ Thái Lan gửi về
báo tin là bây giờ cháu làm thợ chạy máy đèn cho trại. Ngày lãnh được hơn 10 Mỹ
Kim, khá lắm. Cháu muốn ở lại, không đi đâu nữa. Ở quê nhà ra lệnh nó phải tiếp
tục đi, cứ hướng ra biển mà đi. Thằng nhỏ rất tháo vát thi hành theo lệnh mẹ
nhưng thấy chờ ở trại Thái Lan quá lâu, đã cùng bạn bè ăn cắp tàu vượt biên mới
đến, đổ dầu chạy qua Indo. Thật may mắn cháu trải qua bao nhiêu gian khổ đã đến
trại tỵ nạn Nam Dương. Chuyện này các báo có đăng tin. Rồi lệnh từ Thủ Ðức lại
đưa ra là nhất quyết phải xin đi Mỹ. Phải đi cho hết biển Thái Bình Dương.
Trải qua 3 năm nằm lỳ cố thủ ở trại sau cùng cháu tôi
cũng đến San Jose. Thằng nhỏ viết thơ về báo tin là đã đi hết biển thì bây giờ
đi đâu.
Thơ nhà hỏa tốc gửi qua lời lẽ nửa vui mừng nửa giận dữ: “Tiên sư thằng ngu. Ðã đi hết biển mà đến
được San Jose thì bây giờ làm giấy đoàn tụ cho mẹ mày và các em qua chứ còn đi
đâu nữa. San Jose là nhất rồi.”
Down Town San Jose 100 năm trước
và ngày nay
Ðó là lý do mà gia đình tôi cũng như thằng cháu họ đã ở
lại San Jose suốt bao nhiêu năm nay. Chúng tôi bao năm thao thức với “mưa Sài
Gòn, mưa Hà Nội”. Ðã nghe đi nghe lại lời ca tha thiết: “Về đây nghe anh, về
đây nghe anh, về đây mặc áo the, đi guốc mộc” nhưng sao mãi chẳng quay về cố
hương.
Cũng như mọi người, chúng tôi cũng có người em Mùa Thu Hà
Nội, “mà sao ở tuổi phong sương anh chưa gắng tìm về.”
Cũng như anh em, chúng tôi có 20 năm Sài Gòn tràn đầy kỷ
niệm mà sao suốt cuộc đời di tản chỉ nằm mơ với cơn ác mộng bị kẹt lại quê nhà.
Cũng như tất cả di dân tỵ nạn lưu vong, chúng tôi cũng có
tấm lòng thương yêu đất nước quê hương, nhưng đôi khi phải hẹn rằng “Nghìn năm
sau mới níu bóng quay về.”
Trong khi đó thì San Jose, đất tạm dung đã thực sự cho ta
dân chủ, cơm áo, với đời sống đầy cơ hội và được phép mưu cầu hạnh phúc. Tuy
rất cá nhân, rất vị kỷ, nhưng rất tự do.
Nhạc sĩ Trần Quang Lộc, chưa hề bước chân ra Hà Nội mà đã
sáng tác bài “Có phải em là mùa Thu Hà Nội:. Tha thiết nghẹn ngào biết chừng
nào. Và ông Nam Lộc, một “Social Worker” nổi tiếng của thế giới tỵ nạn cũng để
lại bản nhạc Vĩnh biệt Sài Gòn hay đến nỗi ở Việt Nam khi nghe được trên BBC đã
đồn rằng đây là bản mới của Phạm Duy.
Vậy mà chúng ta bao năm sống trong lòng quê hương San
Jose mà không viết được một bài ca ngợi thành phố này. Như vậy có bạc bẽo quá
hay không.
Do đó xin viết đôi dòng về San Jose, chuyện kể từ đầu.
MỘT CHÚT LỊCH SỬ
Vào thế kỷ thứ 16, San Jose là vùng đất hoang dã. Phải
đến năm 1720 mới có dấu vết của con người. Ngày 21 tháng 5-1737 di dân định cư
tuyên xưng ông thánh Saint Josept và danh hiệu San Jose đã trở thành lịch sử.
Hơn 100 năm sau, vào năm 1849 thành phố San Francisco thành lập. Kế tiếp ngày
27 tháng 3-1850 tiểu bang California được công nhận và chọn San Jose là thủ đô
đầu tiên của California.
Trong số 9 đô thị của Vùng Vịnh Cựu Kim Sơn thì San Jose
đất rộng nhất nhưng người thưa nên suốt 200 năm vẫn phải đóng vai đàn em San
Francisco vì đô thị này ra đời trước một năm. Các bạn có thể đã biết rằng đội
banh 49er của Cựu Kim Sơn đã lấy con số 1849 kỷ niệm năm San-Fran thành lập và
trở thành đô thị số một của miền Viễn Tây. Du khách đến San Francisco không ai
biết đường đến San Jose cho đến khi nữ ca sĩ da đen Dionne Warwick đã làm rung
động giới giang hồ với bài ca tình tự POP culture.
- Do you know the way to San Jose, I've been away so
long, I may go wrong and lose my way.
Anh có biết đường về San Jose hay không? Tôi đã đi xa từ lâu, nay có thể
lạc lối về. I'm going back to find some peace of mind in San Jose...
Ðúng như vậy, gần 40 năm trước, những người Việt di tản
đã đến San Jose để tìm một chút bình yên, bỏ lại sau lưng một nước Việt buồn.
Vào thời kỳ cuối thập niên 70, San Jose còn những cánh
đồng đầy hoa vàng. Xa lộ 87 và 680 đang xây cất. Ngày nay hoa vàng chỉ còn
trong kỷ niệm. Cả một khu down town tráng lệ mới mẻ đã dựng lên do tiền bạc thế
giới đổ về như nước của một thời vàng son đã làm thành cái nôi của Thung Lũng
Ðiện Tử.
Dân số San Jose bây giờ lên đến trên 900 ngàn dân, đông
hơn San Francisco và một thời đã được coi là thành phố lớn an toàn nhất nước.
Nhà cửa cũng đắt đỏ hàng đầu quốc gia với lợi tức chung
của một gia đình là $80 ngàn Mỹ Kim một năm.
Sự phồn thịnh của San Jose chắc chắn đã có sự góp mặt của
người Việt suốt 38 năm qua. Tuy nhiên, thực sự đợt di dân đông đảo của người Mỹ
từ miền Ðông đến San Jose đã xẩy ra từ hơn 100 năm trước.
Ðúng vậy, hơn 100 năm trước có một gia đình di dân từ
Kentucky về San Jose. Chồng là bác sĩ, vợ là nhà hoạt động xã hội. Họ là những
nhà phiêu lưu đi tìm đất lành như chúng ta đến từ Thái Bình Dương. Chuyện về
gia đình này lập nghiệp ở San Jose là câu chuyện đời thường nhưng rất tiêu
biểu. Năm 1899, họ mua được một ngôi nhà ngon lành tại San Jose với giá 7,000
đồng. Ngôi nhà này bây giờ trị giá trên một triệu đồng. Ði nhổ răng phải trả
tiền mặt cho nha sĩ là 5 đồng. Nhưng thực phẩm ở vùng này thời đó còn thiếu nên
phải mua 3 đồng một con gà và 3 đồng một tá trứng gà. Giá trứng gà hiện nay vẫn
còn đứng lại nhưng giá nhà thì tăng lên gấp 100 lần. Bà bác sĩ hoạt động thiện
nguyện cho nhà thờ cho đến khi về già nên được gọi là Grandma của tất cả mọi
người. Thành tích gây quỹ xã hội có lần thu đến 100 Mỹ kim. Tên của bà vẫn còn
đến ngày nay và người Việt nào cũng nhắc đến mà không hề biết rõ. Ðó là gia
đình Bascom. Trên con đường Bascom có nhà thương Bascom nổi tiếng trong cộng
đồng Việt Nam.
Từ thời của gia đình Bascom, dân số San Jose chỉ có
25,000 cho đến nay thành phố cả triệu dân, đã có biết bao nhiêu thay đổi. Trong
30 năm sau cùng của thời hiện tại chúng ta đã đóng góp vào thành phố này bằng
sự hiện diện quan trọng nhất là dân số tăng dần vượt tất cả mọi chỉ tiêu về
thống kê. Trong lúc đi tìm dữ kiện, chúng tôi ghi nhận những mẩu chuyện vụn vặt
rất lý thú về người Việt đến Bắc Cali trước 75, trong thời kỳ 75 và sau này.
Hai vợ chồng một gia đình Việt Mỹ bán đồ nhà binh tại chợ trời Capitol là người
quen biết lo sưu tầm các di vật của Việt Nam Cộng Hòa cho chúng tôi. Ông chồng
là cựu chiến binh ở Việt Nam. Ông nói rằng các cựu quân nhân có vợ Việt Nam về
cư ngụ tại địa phương này trước năm 75 có quen biết nhau nên thường sinh hoạt
chung thành nhóm vài chục người. Ông hãnh diện cho biết rằng chỉ còn lại rất ít
như gia đình của ông bà vẫn ở với nhau đầy tình nghĩa chung thủy Việt Mỹ. Ðợt
tỵ nạn từ 75 đã đem lại cho quý bà quý cô cả một chân trời quê hương bỏ lại.
Các bà dẫn chồng Mỹ vào thăm trại Pendleton ở Nam Cali để làm công tác xã hội,
tìm người thân, hoặc là chẳng làm gì cả, chỉ cốt đi xem người Việt tỵ nạn, đón
về nhà, mời ăn uống, tìm Sponsor. Và sau cùng thì đa số quý bà Việt Nam đều lá
rụng về cội.
Ði theo tiếng nước tôi để lại cho các ông chồng Mỹ ngơ
ngẩn với những chai nước mắm dở dang. Như vậy, nếu về chính trị và quân sự Mỹ
bỏ Việt Nam thì qua lãnh vực tình yêu và gia đình, đa số Việt Nam đều bỏ Mỹ. Ðó
là thế giới của phụ nữ Việt trước 75. Ngoài ra còn có thế giới của sinh viên
Việt Nam du học trước 75, hiện cũng trở thành nhóm ái hữu sinh hoạt với nhau
trong phạm vi riêng tư. Còn người Việt đến Hoa Kỳ trong đợt 75 thì ai là
người đến đây đầu tiên. Ký giả Hoa Kỳ đã viết một bài trên San Jose Mercury
News ngày 24 tháng 4-1975 đề cập đến nhóm gia đình 154 người đi máy bay World
Airway trực tiếp từ Sài Gòn đến San Francisco. Ða số quý vị này hiện đã thành
đạt và vẫn còn cư ngụ trong vùng. Nhóm gia đình sớm sủa đến Mỹ gồm có các ông
cựu tổng trưởng kinh tế Nguyễn Kim Ngọc và ông dân biểu Ngô Trọng Hiếu.
Từ 29 năm qua cho đến bây giờ. Cộng đồng người Việt sống
và trải qua kinh nghiệm của hoàn cảnh song văn hóa. Chúng ta sử dụng song ngữ
đã đành, chúng ta còn vui hưởng một lượt 2 đời sống rất phong phú. Từ sáng cho
đến chiều, chợ Mỹ, chợ Việt, báo Mỹ, báo Việt, Radio TV Mỹ Việt đề huề. Thậm
chí hóa đơn điện nước, điện thoại cũng đều song ngữ. Phiếu đi bầu cũng hai thứ
tiếng. Ðiện thoại kêu gọi chào hàng làm phiền chúng ta cũng có cả Anh lẫn Việt
ngữ. Suốt 12 tháng một năm, chúng ta vui hưởng và tham dự cả Vu Lan lẫn
Memorial Day và Mother's Day. Nếu là người con hiếu thảo quanh năm ta có thể
lên nghĩa trang Việt Nam thăm mộ cha mẹ từ Tết Tây tháng Giêng, Tết Ta tháng
Hai, Thanh Minh tháng Ba, Memorial và Mother' Day tháng 5, Father's Day tháng
Sáu, Vu Lan tháng 8 và Thanksgiving tháng 11. Trẻ em chúng ta vui hưởng ngày
Tết Trung Thu tháng 9 và Halloween tháng 10. Ðặc biệt quý vị cao niên, thì giờ
rộng rãi yêu văn chương chữ nghĩa có cơ hội vào thư viện thành phố 9 tầng, 177
triệu Mỹ kim để tham khảo một triệu thứ tài liệu. Bấm máy điện toán có phần
tiếng Việt. Quý vị có thể đem về 10 tape Thúy Nga Paris hay văn nghệ Asia và
100 cuốn sách một lần. Nhưng chắc chắn không ai có thể đọc được nhiều như thế
vì còn phải dành thì giờ cho 6 chương trình TV, 6 đài Radio 24/24, hàng chục tờ
tuần báo và nguyệt san cùng với 4 tờ nhật báo. Tất cả đều phát không và toàn
bằng Việt ngữ.
Về văn hóa ẩm thực thì phải nói rằng các thức ăn căn bản
của các sắc dân không đâu ngon hơn California, gồm cả thực đơn Việt Nam.
Hamburger ở Cali ngon hơn ở Ðức, Pizza ngon hơn ở Ý, Vịt Bắc Kinh ngon hơn ở
Bắc Kinh, Tacco ngon hơn ở Mễ. Bánh Tôm Cổ Ngư ngon hơn Cổ Ngư Hà Nội, Chả Cá
ngon hơn ở Thăng Long. Ðó không phải là ý kiến của chúng tôi mà chính quý vị đi
chơi khắp bốn phương trời về nói lại. Và đặc biệt là món phở. Dù cho đi bốn
phương trời hay về cả ở ba miền Trung Nam Bắc Việt Nam, trở lại Hoa Kỳ ai cũng
nói Phở Cali là nhất. Sau hết, chúng tôi đã tham khảo qua các tác phẩm của hơn
16 sắc dân đến Hoa Kỳ trong 100 năm qua viết về nước Mỹ. Có thể đi đến kết luận
rằng đây là một xã hội tuy không toàn hảo nhưng gần đạt được chỉ tiêu mà con
người mong muốn. Một xã hội tự do, tôn trọng nhân phẩm, con người có cơ hội
đồng đều. Chỉ cần làm việc một giờ đủ tiền cho thực phẩm một ngày. Hai giờ là
đủ mua một bộ quần áo. Dù là lương tối thiểu, giàu hay nghèo ai cũng có xe hơi
chạy trên xa lộ trị giá trên 100 tỷ đô la khắp nước Hoa Kỳ.
Cũng bắt đầu từ 38 năm về trước khi cộng đồng Việt Nam
thành hình thì San Jose trở thành trái tim của miền Bắc California.
Toàn thể người Việt tại Bắc Cali hiện có 300 ngàn dân
nhưng riêng thành phố San Jose có 100,000 vào kỳ kiểm kê dân số năm 2010. Hiện
nay San Jose là thành phố đông dân Việt nhất trong số tất cả các đô thị trên
thế giới.
Ngoài đặc điểm về dân số, San Jose còn có khá nhiều thành
tích về những hoạt động tiên phong của người Việt tại Hải Ngoại. Về truyền
thông miền Bắc có tờ nhật báo Việt Nam của Nguyễn Kim Bảng phát hành hàng ngày
trước khi tờ Người Việt ở quận Cam ra đời. Nhật báo Việt Nam vẫn còn tiếp tục
đến nay cùng với nhiều nhật báo khác như Thời Báo, Cali Today v.v...
Radio Ðông Thành cũng là chương trình phát thanh đầu tiên
và tiếp theo Truyền hình Việt Nam Tự Do cũng là chương trình TV Việt ngữ hàng
ngày đi tiên phong tại Hoa Kỳ trước cả miền Nam California.
Dân Việt Bắc Cali cũng tổ chức lễ tưởng niệm 30 tháng 4
lần đầu tại công viên St. Jame năm 1978 và tổ chức Hội Tết quy mô lần thứ nhất
vào năm 1983.
Về phương diện văn hóa xã hội, cơ quan IRCC, Inc. do
người Việt thành lập để cung cấp dịch vụ tỵ nạn từ năm 1976. Trong khi đó trung
tâm Việt ngữ Văn Lang với 1,000 học sinh và gần 200 giáo chức nhân viên tình
nguyện vừa tổ chức chào mừng 25 năm công tác. Các đoàn thể Hướng đạo, Không
quân, Hải quân, Nhảy dù v.v. cũng đều có lịch sử sinh hoạt một phần tư thế kỷ.
San Jose cũng là nơi có Câu Lạc Bộ Việt Dã Việt Nam tham
dự các kỳ chạy đua với Hoa Kỳ và chạy đuốc Tự Do từ SF về San Jose vào dịp Tết
mỗi năm.
Ðặc biệt cũng tại miền Bắc California một nghĩa trang
hoàn toàn Việt nam đã được thành lập từ năm 1978 tại Los Gatos với 500 phần mộ.
Kỳ đài Việt Nam Cộng Hòa cũng đã được thiết dựng từ năm 1990 tại đường Capitol
Expwy nhưng đến năm 2000 vừa qua đã được di chuyển về vườn Kelley, nơi sẽ hoàn
tất công viên văn hóa đầu tiên của người Việt trên đất Mỹ. Cũng tại Vườn Kelley
cạnh Senter Road một ngôi nhà cổ Victoria đã trở thành Bảo Tàng Viện Thuyền
Nhân và Việt Nam Cộng Hòa đầu tiên trên thế giới do cơ quan IRCC thực hiện.
Vitoria House 1880
và Viet Museum ngày nay 2013
Về lãnh vực kinh tế và thương mại Bắc California có khả
năng tiềm ẩn rải rác từ Sacramento, San Francisco, Oakland, San Jose đến
Milpitas. Ðã có nhiều khu thương mại Á Châu và Việt Nam và cũng trở thành một
Little Saigon như tại Orange County. Khác hẳn tại các thành phố nhỏ như
Westminster, Garden Grove miền Nam khi người Việt mới đến các nơi này chưa phải
là vùng đông dân, do đó người Việt có cơ hội lập thành các khu vực với ranh
giới riêng biệt. Tại Bắc Cali, dân tỵ nạn Việt Nam đến định cư đã hội nhập ngay
vào các khu đông đảo người Mỹ, người Mễ nên phải nỗ lực tìm đường sinh tồn để
dần dần vươn lên. Dù vậy, tại San Jose cũng có các khu thương mại Việt Nam ngay
tại Down Town, khu Senter, khu Tully hoặc tương đối văn minh như khu Grand
Century ở góc đường Story.
Hơn 20 năm trước, 2 bên đường phố tại San Jose toàn là
đất trống với hoa vàng rực rỡ. Suốt 2 thập niên ngành điện tử nở hoa kỹ thuật.
Ðất trống trở thành hãng xưởng. Hoa Kỳ gọi đây là Thung Lũng Ðiện Tử. Hầu hết
80% người Việt làm cho các hãng điện. Ða số chồng là Technician và vợ làm
Assembly. Ca dao của Giao Chỉ có câu là: Ở đây chồng tếch vợ ly. Cùng làm một
xíp còn gì sướng hơn.
Rồi tiếp đến thế hệ kế tiếp, con cái tốt nghiệp đa số vào
làm kỹ sư.
Cùng với ngành điện tử phát triển, Việt Nam nhẩy vào làm
ăn trong lãnh vực xe lunch. Chồng lái xe, vợ nấu bếp. Hàng trăm xe lunch ngược
xuôi bán bữa ăn trưa cho nhân công các hãng. Thoạt đầu thuê xe, sau lên làm chủ
xe và có các nhà làm ăn lớn trở thành chủ bãi. Ðây là các cơ sở Parking và tiếp
liệu cho hàng trăm xe lunch. Gia đình ông Lê từ quê hương miền Tây nổi danh tại
San Jose trong kỹ nghệ xe lunch. Hiện nay trở thành công ty lớn với danh hiệu
Lee's Brothers đưa bao bánh mì vĩ đại lên các nóc nhà để làm huy hiệu tiêu biểu
cho ngành Fast Food Việt Nam chinh phục thị trường Mỹ.
Về một lãnh vực khác, ông Ngô Hứa, một công dân gốc Bạc
Liêu, mở đầu sự nghiệp bằng xe bán cá lẻ ngược xuôi từ Monterey đến San
Francisco, bây giờ trở thành nhà tư bản quan trọng trong thương vụ hải sản tại
Hoa Kỳ, chủ nhân nhiều bến tàu, bến cá từ Ðại Tây Dương qua Thai Bình Dương.
Cùng một lượt, trên các khu thị tứ toàn nước Mỹ hệ thống phở Hòa phát triển đưa
hương vị độc đáo của tô phở đến các tiểu bang. Dù vậy ai cũng nhớ rằng tô phở
Hòa đầu tiên bắt đầu ở San Jose. Chúng ta cũng không quên sự phát triển vượt
bực của Việt Nam trong ngành nail. Ngồi ráp hàn trong xưởng, chạy xe lunch
ngoài đường hay mở tiệm sơn móng tay, tất cả đều mở đường cho con cháu xây dựng
thế hệ tương lai. Khi nói đến San Jose, không thể không nói đến rất nhiều chủ
nhân của các hãng điện tử gốc Việt đã thành công và hiện vẫn còn giữ vững tay
lái trong cơn sóng gió kinh tế hiện nay. San Jose cũng là cái nôi của các tổ
chức Kháng chiến, Phục hưng và là nơi các vị lãnh đạo VNCH lựa chọn để tái xuất
giang hồ như Thiếu Tướng Kỳ, Tổng Thống Thiệu và Ðại Tướng Khánh.
Ðó là câu chuyện của xóm làng San Jose gần 40 năm về
trước rồi từ đó đến nay biết bao nhiêu vật đổi sao dời. Ở Á Châu người ta
thường nói đến chuyện dâu bể. Trải qua thời gian, biển cả được con sông bồi đắp
phù sa trở thành ruộng dâu. Và những người dân Việt tiền phong đã đến đất này
khai phá và xây nền móng cho cộng đồng và lớp người đến sau đã mở rộng chân
trời để hình thành cả một quê hương của riêng ta trên đất mới.
Vào đầu năm 2005, khu bầu cử số 7 với 30% cử tri Việt Nam
náo nức về tin có đến 5 ứng cử viên trẻ Việt sẽ ra ứng cử nghị viên thành phố.
Ðây sẽ là một bài học mới hào hứng cho một vận hội mới. Khi niềm mơ ước một
nghị viên gốc Việt thành sự thực lại tiếp theo với những khác biệt chia rẽ cả
cộng đồng mà vết thương vẫn chưa hàn gắn.
Mặc dù miền Bắc của chúng ta không đông đảo bằng quận
Cam, không có khu Little Saigon sầm uất nhưng chúng ta đã có nhiều khả năng
tiềm ẩn. Chúng ta không quá tập trung để trở thành xa cách với dân địa phương.
Chúng ta có cơ hội hội nhập nhiều hơn và đây là ưu điểm đáng lưu ý.
Khi chúng tôi có dịp xuống thăm khu thị tứ của cộng đồng
Việt miền Nam, đã có những cảm tưởng vừa tự hào vừa quản ngại. Người Việt xây
dựng được cả một thành phố Saigon nhỏ trên đất Mỹ quả thực là điều đáng hãnh
diện. Tuy nhiên, toàn thể quê hương mới của dân ta không hề hấp dẫn người Hoa
Kỳ và các sắc dân khác. Do đó, có thể coi là chúng ta nên bằng lòng với
sự phát triển chừng mực của cộng đồng Việt tại San Jose vì đây chính là sự
thăng bằng giữa vấn đề bảo toàn truyền thống và việc tham dự vào con đường hội
nhập.
Sau cùng, như chúng tôi vẫn thường góp ý kiến, tất cả lớp
người tỵ nạn của bao năm qua chỉ là đợt khai phá tiền phong. Chúng ta chỉ là
những cây tràm, cây đước của miền Ðồng Tháp - Cà Mau. Sau này con cháu chúng ta
mới thực sự là cam quít. Nếu ta có bền gan vững chí, thành công hay thất bại
thì cũng chỉ là những viên gạch lót đường cho các cộng đồng tương lai sẽ dựng
lên và mãi mãi tốt đẹp về sau. Chuyện sau cùng là phải nói đến mối ràng buộc
với quê hương. Dù ra đi trong hoàn cảnh nào thì mọi sắc dân định cư trên đất
mới cũng trải qua những kinh nghiệm như nhau. Phần lớn nhận nơi này làm quê
hương. Ba trăm năm trước người Anh đến Tân thế giới để trở thành người Mỹ. Đã
hai lần đem quân về cứu quê hương. Ba trăm năm sau hiệp hội các quốc gia bị
cộng sản thống trị họp tại San Francisco đã ghi nhận rằng, dù cố hương còn độc
tài hay đã tự do dân chủ thì làm tân công dân trên đất mới vẫn giúp cho quê nhà
nhiều hơn là quay về. Xem ra tưởng là vị kỷ nhưng chính là chân lý. Vấn đề là,
anh còn nhớ hay anh đã quên.
Giao Chỉ - San Jose 2013
Giao Chỉ, San Jose tặng Việt Luận, Sydney.
No comments:
Post a Comment