Carlyle
A. Thayer*
Đặng
Khương
chuyển ngữ, CTV
Phía Trước
13/10/2012
Ngày 27 tháng Bảy
vừa qua, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đã gặp người đồng nhiệm nước
Nga, Tổng thống Vladimir Putin, tại thành phố nghỉ mát Sochi, Nga.
Hai nhân vật đã ban hành một tuyên bố chung nâng cao mối
quan hệ hai nước lên tầm đối tác chiến lược toàn diện.
Vladimir Putin
(trái) và Trương Tấn Sang (phải) tại Dinh thự Tổng thống ở thành phố Sochi ngày
27/7/2012. Ảnh: Nguyễn Khang/TTXVN
Các
nhà phân tích chiến lược đã đặt ra một số câu hỏi đối với sự phát triển này. Tại sao Việt
Nam và Nga tìm kiếm mối quan hệ gần gũi hơn vào lúc này? Nga đã trở thành đối
tác chiến lược đầu tiên của Việt Nam vào năm 2001. Mối quan hệ song phương giữa hai nước đã phát
triển dần dần và gần đây đã tăng tốc trong lúc nền kinh tế nước Nga đang phục
hồi trở lại. Do đó, nâng cao mối quan hệ lên tầm đối tác chiến lược toàn diện
là một sự phát triển tự nhiên. Tuy nhiên, chỉ riêng yếu tố này vẫn không phải
là một lời giải thích đầy đủ. Từ năm
2001 đến nay, Việt Nam đã phát triển quan hệ đối tác chiến lược với tất cả bảy
quốc gia khác, cụ thể là Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Tây Ban Nha,
Anh và Đức. Nhưng
trong tất cả bảy nước này thì chỉ có duy
nhất một mối quan hệ được nâng lên cấp đối tác chiến lược toàn diện vào 2009,
đó là Trung Quốc.
Putin
đã rất chủ động trong việc thúc đẩy Nga trở lại khu vực châu Á. Và mối quan hệ
đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam sẽ giúp Nga đạt mục tiêu này. Trong
khi đó, các cuộc đàm phán liên quan đến đối tác chiến lược giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã
bị đình trệ. Việt Nam đã tìm cách đa phương và đa dạng hoá các mối quan hệ đối
ngoại, và đã đáp ứng lại các đề nghị của Putin. Các công ty Hoa Kỳ hiện nay sẽ
phải tính toán lại xem rằng họ có bỏ lỡ các cơ hội thương mại tại Việt Nam hay
không.
Tuy
nhiên, cụ thể hơn thì Việt Nam và Nga muốn đạt được điều gì từ mối quan hệ này? Có bốn thành phần
chính trong mối quan hệ đối tác chiến lược lâu dài này: hợp tác dầu khí, hợp
tác năng lượng thủy điện và điện hạt nhân, thiết bị quân sự và công nghệ, và
thương mại và đầu tư. Việc này còn đi kèm với ba lĩnh vực quan trọng khác: khoa
học và công nghệ, giáo dục đào tạo, cũng như văn hóa và du lịch.
Về
hợp tác dầu mỏ, khí đốt và năng lượng, Việt Nam và Nga đã thành lập
Vietsovpetro vào năm 1981, một liên doanh dầu khí. Doanh nghiệp này đã hoạt
động rất tích cực tại thềm lục địa Việt Nam cũng như tại Nga, và đây là doanh
nghiệp có lợi nhuận cao nhất của Nga và hiện hợp đồng đã được mở ra cho đến năm
2030. Ngoài ra, Việt Nam và Nga đã nhất trí tạo điều kiện thuận lợi cho các
hoạt động của các liên doanh khác như Rusvietpetro, Gazpromviet và Vietgazprom
nhằm mở rộng hoạt động thăm dò và khai thác dầu mỏ và khí đốt tại các nước thứ
ba. Nga cũng đã đồng ý
cung cấp cho Việt Nam một khoản vay 10,5 tỷ USD để xây dựng nhà máy điện hạt
nhân đầu tiên tại Ninh Thuận.
Hơn nữa, Nga hiện nay là nhà cung cấp thiết bị quân sự,
vũ khí và công nghệ lớn nhất của Việt Nam. Việt Nam và Nga sẽ hợp tác sản xuất
tên lửa hành trình chống tàu (tên lửa đối hạm) và Việt Nam dự kiến sẽ đặt mua
thêm máy bay chiến đấu đa chức năng Sukhoi Su-30. Trong tháng Tám, Nga đã phát
động xây dựng sáu tàu ngầm loại Kilo thông thường để giao cho Việt Nam trong
năm năm tới. Một điểm khác
trong cuộc đàm phán bao gồm cho phép Nga xây dựng cơ sở bảo trì và dịch vụ tại
Vịnh Cam Ranh cũng như đào tạo các thủy thủ tàu ngầm cho phía Việt Nam.
Việt Nam sẽ mở rộng cơ sở thương mại sửa chửa tàu này cho tất cả các nước,
nhưng Nga sẽ được cấp các cơ chế đặc biệt vì là một đối tác chiến lược toàn
diện.
Cả
hai lĩnh vực thương mại và đầu tư giữa hai nước hiện đang phát triển tốt, nhưng
các con số tổng thể lại khá khiêm tốn. Thương mại song phương trong năm 2011
chỉ đạt 2 tỷ USD mặc dù hai nước hy vọng rằng con số này sẽ tăng lên 5 tỷ USD
vào năm 2015 và 10 tỷ USD vào năm 2020. Nga hiện đứng thứ 23 trên bảng đầu tư
nước ngoài của Việt Nam.
Nhưng
ngoài việc thúc đẩy xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược lâu dài, liệu Việt
Nam và Nga có thể tìm kiếm sự cân bằng giữa một đối thủ thứ ba khác, trong
trường hợp của Việt Nam là Trung Quốc, và phía Nga là Hoa Kỳ? Việt Nam muốn một
thế giới đa dạng giữa lúc nước này đang tìm cách phát triển mối quan hệ với tất
cả các cường quốc lớn trên thế giới. Cải thiện quan hệ với Nga là một phần của
chiến lược lớn này. Trong khi đó, Nga không tìm kiếm sự cân bằng chống lại Hoa
Kỳ quá nhiều giữa lúc nước này muốn thiết lập lại sức ảnh hưởng trong khu vực
châu Á-Thái Bình Dương. Nhưng liệu mối
liên kết này sẽ tác động đến địa chính trí châu Á-Thái Bình Dương và khu vực
Biển Đông như thế nào? Nga là nhà cung cấp vũ khí quân sự chính với cả
Trung Quốc lẫn Việt Nam. Nga có tùy quyền lựa chọn tiếp tục hoặc huỷ bỏ các
nguồn cung cấp nếu họ muốn, đặc biệt là trong thời điểm khủng hoảng. Đối với
Biển Đông, có thêm sự hỗ trợ quân sự của Nga sẽ gúp Việt Nam nâng cao năng lực
quốc phòng và cho phép nước này phát triển riêng khu vực cấm tại quần đảo Nam
Sa, còn được gọi là quần đảo Trường Sa.
Tuyên
bố chung giữa hai nước tiếp tục nhắc lại rằng các tranh chấp lãnh thổ cần được
giải quyết bằng biện pháp hòa bình – không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng
vũ lực – dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về
Luật Biển Đông. Cả hai cũng đồng ý bao gồm chủ đề an ninh khu vực vào chương
trình nghị sự của Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Tóm lại, mối quan hệ đối tác
chiến lược toàn diện Việt–Nga chủ yếu tập trung vào các mối quan hệ song phương
vì lợi ích chung của cả hai nước. Việc này cũng không có tác động gì lớn đối
với địa chính trị trong khu vực châu Á–Thái Bình Dương. Điều quan trọng cần lưu
ý rằng Việt Nam đã thúc đẩy khái niệm quan hệ đối tác chiến lược để biểu hiện
mối quan hệ song phương có bề rộng và chiều sâu.
* Carlyle A. Thayer
là giáo sư danh dự tại Đại học New South Wales, Học viện Quốc phòng Úc,
Canberra.
Bài
viết đã đã được đăng lần đầu tiên trên Global
Times.
©
Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2012
No comments:
Post a Comment