Trần Văn Thọ
Cập nhật lần cuối 29/10/2012
Trong thời gian gần đây ở Nhật Bản có hai sự kiện liên quan
kinh tế châu Á làm tôi suy nghĩ nhiều đến Việt Nam. Thứ nhất là Hội nghị quốc tế về Myanmar nhằm giúp nước nầy phục
hưng kinh tế, tổ chức tại Tokyo ngày 11/10, ngay sau hội nghị thường niên của
Ngân hàng Thế giới và Qũy tiền tệ quốc tế (IMF). Thứ hai là hiện tượng một cuốn sách về kinh tế của một nước châu Á
đang bán rất chạy, đó là cuốn Indonesia: Cường
quốc kinh tế của Sato Yuri, nhà nghiên cứu Nhật Bản chuyên về Đông Nam
Á.
Hình ảnh của Myanmar
trên vũ dài quốc tế ngày càng sáng sủa, kể từ khi chính phủ mới thành lập tháng 3 năm 2011, với thái độ, chính sách hòa
hợp hòa giải của tổng thống Thein Sein và sự hưởng ứng tích cực của bà Aung San
Suu Kyi, chủ
tịch Liên minh quốc gia vì dân chủ(NLD). Mỹ đã hứa giải
trừ hầu hết chính sách cấm vận và cộng đồng quốc tế đã đi đến đồng thuận là
giúp Myanmar phát triển.
Hội nghị quốc tế về Myanmar có sự tham gia của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế trong đó có những nhà tài
trợ lớn như Nhật, Ngân hàng thế giới, IMF, và Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB). Đây cũng là những chủ nợ lớn của Myanmar từ trước. Mục đích của hội nghị là để quyết định
việc xử
lý những nợ tồn đọng làm tiền đề cho những khoản tài trợ mới nhằm giúp nước nầy xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thu hút đầu
tư, mở đầu kỷ nguyên phát triển. Tại hội nghị, Nhật Bản, chủ nợ lớn nhất (500
tỉ yen) của Myanmar, đã cam kết xóa 300 tỉ yen và các ngân hàng thương mại Nhật
sẽ cho vay 200 tỉyen để trả số nợ còn lại. Ngân hàng thế giới cũng hứa cho vay
400 triệu USD và ADB cho vay 500 triệu USD để Myanmar trả họ các món nợ cũ. Đầu năm sau,
Nhật và các cơ
quan quốc tế sẽ quyết định cho Myanmar vay những khoản
mới để xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong tình hình mới nầy, Câu lạc bộ Paris mà các
nước Âu châu là thành viên cũng dự kiến có hành động tương tự đối với Myanmar.
Từ trước hội nghị quốc
tế, ở
Nhật đã xảy ra hiện tượng “Bùng nổ Myanmar”: Sách báo viết về Myanmar, chương trình truyền hình về
nước nầy xuất hiện nhiều, doanh nghiệp Nhật đổ xô sang Myanmar tìm cơ hội đầu
tư. Đặc biệt Tổ chức xúc tiên mậu dịch Nhật (JETRO) và nhiều tập đoàn kinh tế
đã lập phòng đại diện tại Yangon, cựu thủ đô và là thành phố lớn nhất Myanmar.
Các tập đoàn Mitsubishi, Sumitomo và Marubeni đã quyết định xây dựng các khu
công nghiệp để thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vào nước nầy. Ngày 15/10, hãng
hàng không ANA bắt đầuđường bay trực tiếp từ Tokyo đến Yangon.
Sự kiện này làm tôi nhớ
lại năm 1993, năm “Bùng nổ Việt Nam” trên vũ đài thế giới, nhất là tại Nhật.
Nhật đi đầu trong việc nối lại viện trợ cho Việt Nam (vào cuối 1992) và vận
động các nước khác và các tổ chức tài chánh quốc tế để đi tới Hội nghị quốc tế về Việt Nam tại Paris (Hội nghị nầy sau đó tổ chức hàng năm với tên
gọi là CG –Consultative Group). Tôi vẫn nhớ rất rõ không khí sôi nổi không phải
chỉ trong giới doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức kinh tế, mà còn trong giới
truyền thông, học thuật, ... khi bàn về triển vọng phát triển của Việt Nam.
Doanh nghiệp, ngân hàng Nhật đã ồ ạt sang Việt Nam như ta đã biết.
Nhưng hiện tượng “Bùng nổ Việt Nam” chỉ kéo
dài độ 3 năm,đến khoảng đầu năm 1996. Tại Nhật, quan tâm về Việt Nam nguội dần.
Trên thực tế, nhiều dự án đầu tư của Nhật tại Việt Nam dừng lại, và rất ít dự
án mới, nhiều văn phòng đại diện của ngân hàng thu hẹp phạm vi hoạt động, có cả
trường hợp họ đóng cửa và cho văn phòng ở Bangkok kiêm nhiệm. Không phải chỉ có
sự thayđổi từ Nhật Bản. Nhìn toàn thể, FDI vào Việt Nam bị ngưng trệ
trong một thời gian dài (từ 1997 đến 2004).
Về nguyên nhân của tình trạng nầy, như ta đã biết, chính sách thu hút FDI có
nhiều nội dung không hợp lý, xa lạ với thường thức quốc tế nhưng chậm được cải
thiện, chính sách kinh tế hay thay đổi, thủ tục hành chánh rườm rà, chính sách
gía cả dịch vụ phân biệt đối xử với người nước ngoài, và nhất là định hướng
phát triển công nghiệp không rõ ràng, không có những yểm trợ
cần thiết, v.v.. Rất tiếc là những bài học
về phát triển công nghiệp, về chính sách thu hút FDI của các nước ở châu Á,
nhất là của Thái Lan, của Malaysia đã có sẵn nhưng không được tham khảo. Nhiều
ý kiến của các nhà nghiên cứu người Việt Nam trong và ngoài nước cũng không
được lưu ý.
Cùng lúc đó, có hiện tượng bùng nổ đầu tư mới tại vùng
duyên hải Trung Quốc và FDI chuyển nhanh sang thị trường lớn đó. Đầu năm nay, trong một hội nghị tại Tokyo, tôi gặp một cựu
quan chức Bộ Tài chánh Nhật, một trong những người đại diện chính phủ Nhật phụ trách việc nối
lại viện trợ cho nước ta và vận động chuẩn bị cho Hội nghị quốc tế về Việt Nam năm 1993. Ông nói với tôi đầy sự tiếc rẻ:
“Hồi đó chúng tôi nghĩ Việt Nam sẽ phát
triển mạnh mẽ. Việt Nam chứ không phải Trung Quốc”.
So sánh thời điểm hai hội nghị quốc tế và
hai hiện tượng bùng nổ, cũng
như xét về tình trạng hạ tầng
và nhiều tiêu chí khác, ta thấy Myanmar đi chậm hơn Việt Nam khoảng 20 năm. Nếu
tình hình ở Việt Nam hiện nay không thay đổi, trước mắt
là nếu không nhanh chóng thực hiện thành công chiến lược tái cơ cấu và thay đổi
mô hình tăng trưởng như đã bàn, và trong dài hạn không có những cải cách thể
chế triệt để hơn, thì chuyện Myanmar theo kịp và vượt qua Việt Nam chỉ là vấn
đề thời gian.
Bây giờ bàn về cuốn sách Indonesia: Cường quốc kinh tế. Với dân số 240 triệu,
thu nhập đầu người khoảng 3.500 USD, nền kinh tế 850 tỉ USD (tư liệu năm 2011)
tuy không nhỏ
(gấp 7 lần Việt Nam) nhưng cũng chưa thể gọi Indonesia là
cường quốc kinh tế. Cuốn sách nầy cũng không có ý nói Indonesia đã là một cường
quốc kinh tế. Nhưng bằng những phân tích từ lý luận kinh tế phát triển, bằng
khảo sát chi tiết về tiềm năng, về thể chế, về chiến lược phát triển kinh tế vừa công bố năm
ngoái và về
khả năng của tầng lớp lãnh đạo hiện nay, tác giả đã chứng
minh một cách rất thuyết phục rằng Indonesia đang bước vào giai đoạn phát triển
cao, bền vững và sẽ là một cường quốc kinh
tế trong tương lai không xa.
Có thể tóm tắt 3 điểm chính:
Thứ nhất, ngoài sự phong phú và đa dạng về tài nguyên, là nước đông dân thứ tư trên thế giới, Indonesia
được thuận lợi nhiều mặt về quy mô thị trường. Hơn nữa, cơ cấu dân số trong đó
tỉ lệ người trong độ tuổi lao động tiếp tục
tăng trong khoảng 20 năm tới sẽ giúp cho nước nầy tăng tích lũy và bảo đảm
nguồn lao động trong quá trình phát triển nhanh sắp tới. Nhưng điểm nầy chỉ là
thuận lợi chứ không cơ bản. Hai điểm sau đây
quan trọng hơn.
Thứ hai, chất lượng thể chế của Indonesia ổn định và ngày càng được cải thiện, được thế giới đánh giá
cao. Sau cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á kéo theo sự sụp đổ của tổng thống
Suharto (tháng 5/1998), quyền hạn của Quốc hội và tư pháp được củng cố, thể chế tam quyền phân lập được xác lập từng bước. Năm 1999 lần đầu tiên Indonesia thực hiện tổng tuyển cử, 5 năm sau, lần đầu tiên dân chúng được trực tiếp bầu tổng thống. Tổng thống được bầu
Susilo B. Yudhoyono tiếp tục ổn định tình hình xã hội, kinh tế và được tái cử năm 2009. Ông đươc báo Time (Mỹ )năm 2009 bình
chọn là 1 trong 100 người có ảnh hưởng trên thế giới, trong đó ông được xếp ở vị trí rất cao (thứ 9). Các chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô ngày càng ổn
định, chẳng hạn lạm phát từ năm 2009 đến nay được giữ ởmức trung bình 4 %, tỉ lệ nợ công trên GDP liên
tục giảm (gần đây chỉ còn độ 25%), cán cân thanh tóan và cán cân vãng lai tính
theo năm thì luôn xuất siêu từ những năm gần
đây, v.v... Liên quan chất lượng thể chế để bảo đảm cho kinh tế ổn định, một điểm đáng nói là
thống đốc ngân hàng nhà nước được độc lập, không
bị chính trị
chi phối. Indonesia hiểu được tầm quan trọng của điểm này
nên đã
đưa ra đạo luật trong đó quy định là thống đốc ngân hàng nhà nước một khi đã được Quốc hội bầu trên danh
sách đề
cử của tổng thống thì suốt nhiệm kỳ 5 năm cả tổng thống
và quốc hội không có quyền bãi miễn.
Thứ ba, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế dài hạn được hoạch định công
phu, nội dung có sức thuyết phục và các cơ chế,biện pháp thực hiện được dư luận trong và ngoài nước đồng tình. Năm 2009, sau khi đắc cử nhiệm kỳ 2,
tổng thống Yudhoyono xúc tiến lập Chiến lược phát triển kinh tế 15 năm (2011-2025) với phương châm kế hoạch phải phát huy được hết tiềm năng của Indonesia và là khi công bố phải
“biểu thị được ý chí phát triển không có gì đáng hổ thẹn với thế giới”.Phương pháp lập kế hoạch là huy động trí tuệ của
chuyên gia, trí thức và triệt để dân chủ và phân quyền. Cứ vài ba tháng, tổng
thống triệu tập lãnh đạo của 13 châu trong
cả nước và đại diện các đoàn thể kinh tế cùng với
giới chuyên gia hội họp một lần để bàn nội dung kế hoạch và các công cụ chính
sách để thực thi. Sự phân công về vai trò của nhà nước và thị trường, của trung
ương và
địa phương được đặc biệt lưu ý.
Tháng 5 năm 2011, khi kế hoạch soạn xong, đích thân tổng
thống Yudhoyono công bố với cả giới truyền thông trong và ngoài nước. Nội dung
chiến lược 2011-2025 được công bố bằng cả
tiếng Indonesia và tiếng Anh. Theo chiến lược nầy, toàn quốc sẽ chia làm 6 vùng
phát triển, gồm tất cả 22 ngành, mỗi vùng phát triển chú trọng một số ngành tùy
theo đặc điểm của mình. Nhìn chung, 22 ngành ấy có cả nông lâm ngư nghiệp, chế
biến công nghiệp, du lịch, công nghệ thông tin, v.v.. phản ảnh tính chất và quy
mô của một nền kinh tế đông dân và nhiều tài nguyên. Chủ
thể đầu tư chính
cho chiến lược là tư nhân trong và ngoài nước. Kể cả các dự án kết hợp tư nhân và chính phủ (hình thái PPP), tỉ lệ của
tư nhân (bao gồm FDI) trong tổng đầu tư chiếm gần 75%. Đầu tư của chính phủ tập
trung vào hạ tầng và đặt trong tâm vào việc liên kết các vùng kinh tế.
Chiến lược 15 năm nầy dự kiến kinh tế Indonesia phát triển trung bình 7-9%/năm và vào năm 2025, Indonesia sẽ là
một trong 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới với GDP khoảng 4.000- 4.500 tỉ USD
và GDP
đầu người độ 14-15 ngàn USD. Ngoài 3 đặc điểm giới thiệu ở trên, trong cuốn sách đã dẫn, tác giả Sato phân tích nhiều mặt khác, như
bộ máy hành chánh, chất lượng quan chức, sự thay đổi tư duy của giới doanh
nghiệp,... và kết luận là khả năng thành công của Chiến lược 2011-2025 của
Indonesia là rất lớn.
Đọc cuốn Indonesia: Cường quốc kinh tế, trong đầu tôi luôn hiện ra câu hỏi: Tại sao không phải Việt Nam? Tới bao giờ Việt Nam mới được người dân trong nước và dư luận quốc tế tin
tưởng sẽ có ngày trở thành một nền kinh tế
có địa vị đáng kể trên thế giới? Tuy dân số không bằng Indonesia nhưng Việt Nam
cũng là một nước đông dân (xếp thứ 13 trên thế giới). Các điều kiện khác thì
Việt Nam thuận lợi hơn nhiều. Indonesia có hơn 10.000 đảo lớn nhỏ, việc xây
dựng hạ tầng rất tốn kém và khó có hiệu quả cao. So với Việt Nam, khí hậu
Indonesia không thuận lợi bằng và họ lại nằm xa các trung tâm phát triển ở Á
châu. Việt Nam còn nhiều yếu tố thuận lợi khác nữa.
Hiện nay quan hệ Nhật Trung xấu đi nên Nhật chuyển đầu tư
sang các Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Do đó mặc dù nhìn chung, FDI vào Việt
Nam gần đây giảm nhiều nhưng riêng của Nhật thì tăng đáng kể. Tuy nhiên, cần chú ý là Nhật đang chú trọng
đầu tư ở Thái Lan và Indonesia hơn là Việt Nam. Năm ngoái tuy FDI của Nhật tại
Việt Nam
đạt 150 tỉ yen, tăng 2,4 lần so với năm trước, nhưng
trong cùng thời kỳFDI của Nhật tại Thái Lan lên tới 570 tỉ yen, tăng gần 3 lần,
và tại Indonesia 280 tỉ yen, tăng tới 7 lần và còn đang tăng nhanh. Một điểm
đáng lưu ý nữa là dư luận ở Nhật nói chung ngày càng ít lạc quan về triển vọng phát triển của Việt Nam nên khuynh hướng tăng FDI của Nhật có
thể sẽ không bền vững, trừ trường hợp Việt
Nam cho thấy có tiến bộ rõ rệt trong quá trình cải cách thể chế và có chiến
lược phát triển được đánh giá là khả thi.
Liên quan đến FDI tại Á châu, một điểm nổi bật gần đây là
các công ty xe hơi của Nhật và Hàn Quốc đã chọn Indonesia làm cứ điểm sản xuất
mới và đang triển khai nhiều dự án cụ thể. Cuối thập niên 1980, Thái Lan đã thành công trong việc thu hút FDI của Nhật
và từ thập niên 1990 đã trở thành cứ điểm sản xuất xe hơi quan trọng. Việt Nam
đã bỏ
lỡ cơ hội trong hai thập niên 1990 và 2000 để bây giờ cơ
hội đó
đang chuyển sang Indonesia.
Tiềm năng của nước ta rất lớn, nhưng đến bao giờ mới được phát huy? Trào lưu phát triển ở Á châu đang bỏ Việt
Nam lại đằng sau./.
Trần Văn Thọ
Nguồn: Một phiên bản của
bài này đã được đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 44.2012, đây là bản gốc
do tác giả gửi Diễn Đàn
No comments:
Post a Comment