Nguyễn
Hoàng Đức
Viet-Studies 29-10-2012
Việt Nam, ôi quê hương yêu dấu rừng vàng biển bạc của
chúng ta, nhưng mà có phải nó đang tụt xuống hàng “hố rác” của nhân loại? Từ Bắc chí Nam, từ
Quảng Ninh đến Cần Thơ các cô gái trẻ nườm nượm đi thi để lọt qua vòng tuyển
lấy chồng Hàn Quốc. Với một lý do mở màn rất đơn giản, ít nhất người ta được
xuất ngoại lần đầu, được đáp máy bay lên bầu trời. Trái lại, nếu không dám dứt
bỏ một lần làm sao thoát cảnh lội bì bõm bên bờ ruộng để leo lên phi cơ phản
lực vượt ra quốc tế? Những cô gái Việt này ao ước đàn ông Hàn Quốc chẳng khác
gì “tây mũi tẹt”, giống cha ông châu Á đã từng khao khát phương Tây như thần
thánh cái gì cũng có. Trời ơi, quả là một trời một vực, cùng da vàng mũi tẹt
như nhau, chỉ sau vài thập niên, một đằng thì thành tây, đi đâu cũng leo lên xe
hơi và máy bay; một đằng thì bán cả đời mình chỉ để nếm một lần leo phi cơ. Tại
sao? Có phải tại trí khôn của người Việt mà rất nhiều người chúng ta lúc nào
cũng thường trực tự hào?
Có
nhiều người Việt phản ứng rất mạnh mẽ khi thấy ai nói về cái xấu của người
Việt, như thể nói thế là chạm đến quốc hồn – quốc túy, nói xấu tổ tiên, ông
cha… và họ phản đối như thể đó là thước đo chứng minh lòng yêu nước của mình
rằng: tôi yêu tổ quốc, tổ tiên, dân tộc, giống nòi, và tôi phản đối lại là để
bảo vệ tổ quốc. Họ có bảo vệ tổ quốc không? Thực ra, họ chỉ bảo vệ cái xấu
trong chính con người họ. Hoàng đế Napoleon có nói “Bao dung với cái xấu là
sự đồng tình với nó”. Đúng vậy một kẻ ăn cắp thường có cái nhìn vô tội với
một thằng ăn cắp khác. Kẻ nói dối cũng vậy. Kẻ độc ác, đố kỵ, ích kỷ cũng thế,
nó không dành cho những ai giống nó một cái nhìn phán xử khác lạ…
Kết
quả bao dung cũng là bao che cho cái ác tràn lan vô bờ đến vậy dẫn đến dân tộc
Việt ngày nay theo các bảng sắp hạng đều không ngoi ra khỏi vị trí đội sổ, thua
xa cả những nước trong khu vực từ 50 đến 100 năm. Nói đâu xa, nước Lào là nước
nhỏ bé nghèo nàn bậc nhất thế giới, nhưng từ xưa đến nay luôn trở thành giấc mơ
của người Việt. Thời bao cấp, mấy anh sinh viên Lào chỉ có vài cái nhẫn vàng
đeo ngón tay đã trở thành niềm ao ước của nhiều cô gái Việt. Còn giờ đây, xe
hơi loại bán tải của Lào nhiều như xe đạp từ quê lên phố vẫn là mơ ước của giới
trung lưu Việt Nam. Còn giới cán bộ trung lưu Việt hí hửng về thu nhập cỡ dăm
chục triệu đồng mỗi tháng thì vẫn còn thua loại rửa bát, làm thuê ở Singapore,
một nước nằm trong khu vực.
Sự
bao dung – bao che – cũng là đồng hóa đó đã gây ra vô số cái xấu cái ác ở Việt
Nam: nào ăn cắp nắp cống, tháo đinh đường tầu, tháo đinh rầm cầu, cắt đường dây
điện thoại, rải đinh “đa cạnh” ra đường, rồi xi măng cốt tre…đã gây ra nhiêu
tai nạn khủng khiếp. Mới nhất là nạn pha trộn tạp chất vào xăng dầu đã gây ra
hàng loạt vụ cháy xe gây thiệt hại tài sản và chết chóc tang thương. Đó là một
thảm họa! Nhưng còn thảm họa hơn ngay khi đã tìm ra mầm mống của những vụ pha
trộn, người ta vẫn triển khai sự bao dung, nghĩa là vẫn bao che cho những thứ
nguy hiểm chết người rình rập ngay trong chiếc xe của người dân. Tại sao? Vì
các công ty xăng dầu đều thuộc các ông lớn, chẳng lẽ ông lại muốn phơi áo sân
sau của mình! Trong một buổi gặp mặt các phóng viên. Một vị quan chức nêu ra ý
kiến chỉ đạo: để kích thích du lịch Việt Nam báo chí cần khai thác đưa tin về
những lời nói tốt đẹp của khách thăm quan nước ngoài, như vậy mới lôi kéo được
du lịch.
-
Vậy những lời nói về cái xấu của người Việt thì sao? – một nhà báo hỏi lại.
Vị
quan chức cười xòa “cái này thì…” – có nghĩa là không được đăng.
Tóm lại, người Việt chỉ quen với những “sự thật” được biên
tập, nói thẳng ra chỉ thích lời khen mà không muốn bị chê. Như vậy là người
Việt chưa trưởng thành, chỉ là những đứa trẻ thích nghe lời khen mà không muốn
bị chê.
Mới đây có nhiều bài báo như của học giả Vương Trí Nhàn tập hợp những bài viết
của các học giả lớn như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Đào Duy Anh,
Đặng Thai Mai … hoặc của nhà báo Hoàng Tùng… đã nêu ra từ xưa, nhiều chuyên gia
phương Tây đã nhận xét người Việt rất nặng như: “nói dối”, “ăn cắp”, và “sát
nhân”. Đặc biệt có chuyên gia nói: “Việt Nam là quốc gia của những
con chuột”.
Trong
một phóng sự truyền hình, người ta phản ánh nạn người Việt qua các nước Tây Âu,
có rất nhiều người tham gia trồng cây cần sa. Họ bị giam trong nhà kín, không
được ra ngoài, suốt ngay lo chăm bón các cây cần sa dưới ánh đèn điện. Việc họ
bị giam cầm trong nhà không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời liệu có phải là
những con chuột? Gần hơn, một loạt các vụ giam cầm công nhân người Việt tại
Nga, ăn ở và làm việc trong nhà hầm như súc vật, đến khi cháy không có đường
thoát hiểm đành ôm nhau chết. Liệu có phải họ bị đối xử như những con chuột và
chết như những con chuột? Và ai đã đối xử với họ như chuột? Bọn thực dân ư?
Không, đó chính là những người Việt mới đó vẫn còn chân lấm tay bùn nhưng đã
sớm bước vào con đường lưu manh hóa tiểu nông, rồi thành tư bản đỏ học đòi. Ai
mà nói về cái xấu của người Việt thì đám này uất ức đầu tiên. Tại sao? Vì đó là
những cái xấu mà chính họ mới là đại biểu cao cấp nhất.
Một quốc gia muốn trưởng thành và tiến bộ thì nó phải kiện toàn
pháp luật bởi vì không có pháp luật không thể thành quốc gia mà đó chỉ là sắc
tộc gia đình trị bán khai. Điều kiện đầu tiên để có pháp luật là không ai cho
dù là vua chúa, chủ tịch hay thủ tướng được ở trên pháp luật. Vua phạm tội xử
như thứ dân. Nhưng cái điều hiển nhiên đó cho đến nay đã đầu thiên niên kỷ thứ
ba người Việt vẫn không được sống trong Nhà nước pháp quyền. Cái gọi là
nhà nước của chúng ta là thứ hầm bà làng, đồng nát như lãnh đạo vẫn thường cất
tiếng nói cửa miệng “đảng, nhà nước, và nhân dân”. Trong câu nói này dù bao sân
nhưng vẫn thiếu một cơ quan trực tiếp của pháp luật đó là “chính phủ”, và như
thế chẳng có ai chịu trách nhiệm cả. Trong khi đó ở các nước người ta luôn phải
tuyên bố: chính phủ đã làm việc này việc kia.
Việt Nam làm sao có pháp luật khi điều 4 của hiến pháp,
Đảng tuyên bố “lãnh đạo tất cả”, cả quốc hội là cơ quan lập hiến, cả chính phủ
là cơ quan hành pháp.
Người ta nói “Quốc hội là cơ quan quyền lực tối
cao”, nhưng mở màn kỳ họp quốc hội, người ta lại đem nghị quyết của trung ương
đảng vào đọc như một định hướng bất khả biện, thì làm sao quốc hội còn là cơ
quan tối cao được. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nhưng lại chịu sự
lãnh đạo cao nhất hơn của đảng, thử hỏi ai thứ nhất? ai thứ nhì? Có một việc
giản dị như vậy sao người ta vẫn ấp úng che đậy, không thể minh bạch? Vì thế ở
Việt Nam, từ lập pháp đến hành pháp đều chỉ là lối tập trận giả, nhưng có một
sự thực bên trong đó: là mong muốn và định vị tuyệt đối của quyền lực. Quyền
lực tuyệt đối để làm gì? Để có được quyền lợi tuyệt đối! Quốc hội Việt cộng ở
trình độ nào? Quốc hội đúng nghĩa là bàn của chủ tịch đoàn ngồi thấp hơn ghế
của các nghị viên, được đặt ở giữa, để các nghị viên thoải mái tranh biện. Trái
lại quốc hội Việt cộng thì nghị viên ngồi dưới như xem kịch, còn chủ tịch đoàn
ngồi phía trên như ban giám khảo. Chủ tịch bước ra bệ nói như Mc, còn ở dưới
giơ tay tán thưởng. Đúng là hình thức văn công chẳng giống ai. Đó là bằng chứng
sờ sờ chứng tỏ cái gọi là quốc gia của chúng ta còn ấu nhi đến mức nào? Hội
trường quốc hội đúng nghĩa của Việt nam vẫn đang xây để chờ cơ hội sánh bước
với loài người. Than ôi vào thiên niên kỷ thứ ba rồi mà người Việt vẫn chưa
nhấc chân bước đầu tiên vì hiến pháp đích thực. Thử hỏi người Việt là người hay là chuột?
Theo
các chuyên gia, chuột là thứ sống theo bầy và thuộc loại thông minh bậc nhất,
chúng không bao giờ để bị dính bẫy đến lần thứ hai. Một con bị sập bẫy, cho dù
bẫy sắt, bẫy tre hay bẫy dính, thì chúng liền tụ lại họp hành rút kinh nghiệm
rồi thông báo cho cả bầy trên toàn lãnh thổ cống ngầm cách thức nhận biết và
tránh bẫy. Nhưng dù bầy chuột có khôn đến mấy, chúng cũng không phải là thứ
kiêu hãnh của ánh sáng. Sự khôn ngoan của chúng chỉ là chui rúc để tồn tại, mà
không phải là vươn thẳng để sống minh bạch và tiến bộ.
Đó
là quan lại cũng như dân chúng. Giờ đến
văn hóa. Thơ là thứ phổ biến cũng như dễ nhất của Việt Nam hiện nay. Thôi
thì tiểu nông, tiểu thương, các cụ hưu trí, các em mới lớn đua nhau làm thơ.
Giờ hãy nhìn tập đoàn làm thơ, có đông rinh rích và rúc ríc làm thơ không? Mới
đây Trung quốc lĩnh giải Nobel văn học lần hai. Tại sao họ có hai thành tựu đó?
Bởi vì cách đây hơn nửa thế kỷ người Trung Quốc đã bỏ làm thơ, và coi thường
thơ. Ai chẳng yêu quê hương. Nhưng người đi xa về bao giờ cũng yêu quê hương hơn,
yêu da diết và đau đáu. Tại sao? Bởi vì tình yêu của họ đã lên men rất nhiều
bởi nỗi nhớ cồn cào. Người làm thơ sẽ yêu thơ hơn nếu người ta biết từ bỏ thơ
để sống trong một cuộc đời toàn diện có công lý, tình yêu, tranh đấu, sám hối
và cứu chuộc. Văn là người! Thi ca là cuộc đời! Người làm thơ sẽ trở về với thơ
như nước nguồn từ đỉnh cao ùa xuống, chứ không phải như tí nước mài mực rồi cọ
lên giấy vòi vĩnh khúc vinh quang. Hãy viết văn làm thơ như những con đại bàng
sà xuống từ lý tưởng cuộc đời, chứ không phải bằng những khúc rúc rích lẩn trốn
khôn ngoan của bầy chuột chỉ quen thủ thế trong cơ chế xin cho của bóng tối.
Một chút thành công tem phiếu bao cấp chỉ là cách con chuột chui qua kẽ hở kiểm
duyệt bé tí của ông chủ, đó không phải là cách con ngựa phi nước đại cùng những
con khác trên thảo nguyên để tìm xem con nào mạnh nhất?! Dám ra gió cuộc đời!
Dám ganh đua minh bạch! Mới có thể tìm được giải quán quân đại bàng, hay những
con chiến mã! Còn đua trong ao hợp tác ư? Chính những nhà quán quân mậu dịch đã
thừa nhận “chúng ta chỉ là tép”.
Mong
rằng mọi người Việt đều biết vượt qua tự ái để phấn đấu cho một xã hội tiến bộ,
minh bạch và kiêu hãnh thực sự. Để những cô con gái Việt không phải nhìn đàn
ông hàng xóm kiêu sa như “tây mũi tẹt”. Rất cám ơn!
Nguyễn
Hoàng Đức
29/10/2012
29/10/2012
Tác
giả gửi cho viet-studies ngày 29-10-12
No comments:
Post a Comment