Kiều Duy Vĩnh
Friday,
July 20, 2012 1:10:06 PM
Kỳ
6
1.
Cuộc tuyệt thực
Tôi xin nhắc lại: Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có
thể đã làm cho tôi sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm
những người theo đạo Thiên Chúa nhất nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính
đều chĩa vào họ.
Thứ
nhất là các đấng bậc trong giáo hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. (Tôi đã
gặp hai bà sơ bị bắt vào xà lim), rồi đến các chánh trương, trùm trưởng, cả đến
hội trống hội kèn cũng bị bắt đi tù hàng loạt.
Tôi
trông họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng rõ họ mắc tội gì mà bị hành hạ đến
như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào Chúa Jê Su. Thế thôi.
Còn
tôi, chả hiểu làm sao, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói
thế không có nghĩa là tất cả mọi người Công Giáo đi tù đều chết hết đâu. Còn
chứ, còn anh Thi, anh Thọ, chị Diệp những người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng,
Thanh Hóa năm 1954, còn Nguyện Công “Cửa” tức Môn, ngư dân vượt biển, còn
Nguyễn Hữu Bổn người thôn Vạn Lộc, Nam Lộc, Nam Ðàn...
Tôi
có nghe nói lại là khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra khỏi tù, họ phải
lôi anh ra, anh mới chịu ra.
Ngay
cả giáo dân họ cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những người Cộng Sản đặt họ
lại hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.
Cho
đến hôm nay năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người còn sót lại trong số
72 người đầu tiên lên Cổng Trời mà vẫn chưa gặp lại ai, ngoài 1 người Cộng Sản
là anh Nguyễn Hữu Ðang.
Khi
ở khu A còn thưa thớt người thì tù ở các trại dưới được dồn lên để lấp vào các
chỗ trống, nên có sự sắp xếp lại.
Tôi
được chuyển sang khu B dưới quyền quản giáo mới tên là Duật người Nam Hà.
Khu
B nhẹ hơn khu A, chế độ ăn uống có hơn đôi chút, được đi lao động nhẹ ở sân
trại. Ba tháng được viết thư một lần và được phép nhận thư.
Tôi
vừa chuyển sang khu B, chưa được viết thư về nhà thì đã nhận được thư của mẹ
tôi gửi lên với địa chỉ:
Công
trường 75A Hà Nội C65 HE.
Mọi
người đều ngạc nhiên, cả tôi nữa.
Lúc
đó nhà tôi ở số nhà 7 phố Thi Sách gần ngay đằng sau Chợ Hôm-Hà Nội.
Tính
từ khi lên Cổng Trời, đã được hơn 3 năm có lẽ tôi chưa được viết thư về nhà lần
nào, thế mà tại sao mẹ tôi lại biết được địa chỉ này mà viết thơ cho tôi và mẹ
tôi có biết là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang không?
Mãi
đến khi được tha tù lần thứ nhất (1970) tôi về gặp lại mẹ tôi, tôi mới rõ. Thì
ra sau khi tôi được chuyển lên Cổng Trời ố 1960 - thế là mất hết tin tức về
tôi. Tất nhiên là mẹ tôi không chịu để mất. Mẹ tôi lên trại cũ ở Bất Bạt Sơn
Tây để hỏi. Chánh giám thị trại là thiếu tá Thanh trả lời là ông ta không rõ!
Quay
về Hà Nội mẹ tôi đến Bộ Công An ở phố Trần Bình Trọng hỏi. Họ không cho vào
gặp. Nhưng từ nhà tôi ở chợ hôm ra đến hồ Thiền Quang chưa đến 1km nên hầu như
liên tục khi nào mẹ tôi dắt cháu đi chơi là mẹ tôi lại tạt vào quấy rầy họ. Ðến
nỗi người thường trực cứ trông thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp.
Mẹ
tôi cứ đi. Kiên trì dắt cháu đi hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ đành phải trả lời.
Nhưng cũng mất 1 quãng thời gian là hơn 3 năm họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ đó:
Công Trường 75A Hà Nội.
Mẹ
tôi lại hỏi tiếp: Thế cái công trường này nó ở chỗ nào ở cái đất Hà Nội này. Họ
bảo họ cũng không biết
Mẹ
tôi đời nào chịu.
Và
cuối cùng họ đành phải trả lời là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang.
Thế
là mẹ tôi đi Hà Giang.
Ði
với 2 bàn tay trắng: Không có mảnh giấy đi tiếp tế cho tù.
Quy
định đi thăm tù phải có giấy giới thiệu của địa phương cấp, mà địa phương được
lệnh không cấp giấy cho mẹ tôi vì thành phần gia đình tôi là địa chủ cường hào
đại gian đại ác. Bố thì bị bắn chết trong cải cách ruộng đất, còn tôi thì đi tù
nên gia đình tôi là đối tượng của cách mạng cần phải chuyên chính. Mặc, không
có giấy giới thiệu mẹ tôi vẫn cứ đi.
Nhưng
lên được đến Hà Giang, chưa qua được đèo Quyết Tiến thì bị công an theo dõi và
bắt quay về Hà Nội.
Mẹ
tôi đành viết thơ cho tôi theo địa chỉ trên. Thế là tôi nhận được thư.
Thế
ra mẹ tôi vẫn còn sống và tôi, tôi vẫn còn sống.
Cũng
có 1 phần do mẹ tôi không chịu mất dấu vết của tôi, làm phiền họ, quấy rầy họ,
mà trên Bộ Công An chưa bật đèn xanh cho ban giám thị trại xóa tên tôi trong
danh sách tù nhân ở Cổng Trời này.
Ðã
có lần họ cho người giả làm tù ở cùng trại với tôi về báo tin là tôi đã chết.
Nhưng mẹ tôi khăng khăng không tin. Mẹ tôi cứ làm tới, sấn tới, và điều đó phần
nào đã cứu sống tôi.
Vả
lại ở trên Cổng Trời này, đối với các bậc như cha Vinh, cha Quế, tu sĩ Ðỗ Bá
Lang, tu sĩ Nguyễn Trung Chính tức Nhẫn, tôi là hạng bét so với các đấng bậc ấy
nên mũi nhọn của cuộc tàn sát không chĩa vào tôi. Ban giám thị trại đem so tôi
với các bậc thánh đó thấy rằng tôi là một phần tử tiến bộ trong số này.
Này
nhé: Tôi không cầu kinh, không làm dấu thánh, không ăn chay trước lễ Phục Sinh.
Không cần nghi lễ Giáng Sinh, thế là tôi chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của
Ban Giám Thị rồi còn gì nữa.
Còn
với các đấng bậc kia.
Cấm
cầu kinh, cứ cầu
Cấm
làm dấu thánh trước khi ăn. Cứ làm. Ngày lễ Giáng Sinh cứ nghỉ không chịu đi
làm.
Và
nhất là chuyện tôi cứ ăn không chịu tuyệt thực cùng các vị đó khi có lệnh cấm
làm dấu thánh trước khi ăn.
Câu
chuyện tuyệt thực xảy ra như sau: “...Ðây là nhà tù, chứ không phải là nhà thờ
của các anh, nên cấm mọi hành vi tôn giáo và tịch thu mọi thứ: thánh giá, kinh
bổn, tràng hạt.” Tịch thu thì được. Còn cấm thì hơi khó hơn, nếu không nói là
không cấm được.
Cấm
cầu kinh các vị ấy cứ cầu, vì làm thế nào mà biết các vị đang cầu kinh?
Còn tiếp
Kiều Duy Vĩnh
Saturday,
July 21, 2012 1:42:26 PM
Kỳ
7
Ăn xong, rồi ngồi chơi nhìn nhau. Im lặng không nói chuyện,
không đi lại, thế là cầu kinh đấy.
Chỉ có đêm đến, lệnh cấm ngồi là có hiệu lực, chứ ban ngày chả
nhẽ lại cấm ngồi bắt nằm mãi sao.
Ban
Giam Thị uất lắm!
Sau
chuyện tu sĩ Ðỗ Bá Lang, chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng tỏ ra quyết liệt hơn,
cứng rắn hơn, dấn tới một bước nữa.
Cấm
triệt để làm dấu thánh trước khi ăn cơm. Nhưng lần này thì Nguyễn Quang Sáng
phải chịu thua.
“Ai
cho các anh ăn?”
“Chúng
tôi. Chúng tôi cho các anh ăn chứ không có Chúa nào cho các anh ăn cả.”
“Cấm
cầu kinh, các anh vẫn lén lút cầu kinh vậy bây giờ trước khi ăn, tôi cấm các
anh làm dấu. Các anh phải cảm ơn người cho các anh ăn. Ðúng lắm, nhưng đó là
chúng tôi đây chứ không có chúa nào hết. Không có con mẹ Maria, thằng Jê su nào
cả. Biết chưa?”
(Nguyên
văn như vậy, tôi xin lỗi các vị phải viết đúng, không dám xuyên tạc, bịa đặt,
báng bổ gì).
Và
đến bữa ăn. Quản giáo đứng đó. Mọi lần thì cửa mở, chúng tôi bê cơm vào trong
phòng. Ðóng cửa lại. Chúng tôi chia nhỏ từng xuất một và ăn. Không có sự hiện
diện của ai cả.
Nhưng
hôm ấy, bê cơm vào, cửa vẫn mở, Quản Giáo đứng đó kiểm soát và nhắc lại lệnh
cấm của Ban Giám Thị.
Tất
cả, cả tôi, không ai phải bảo ai, không chia cơm ra ăn. Ðứng mãi chán, Quản
Giáo đóng cửa lại đi về.
Ðến
chiều, tù nhà bếp đến lấy thùng. Cơm canh vẫn nguyên. Cơm canh đều chia vào hai
cái thùng gỗ to, chứ không chia thành một phần như ở xà lim.
Buổi
chiều, đích thân chánh giám thị xuống, mọi việc lại diễn ra đúng như buổi sáng.
Mặt tái vì giận dữ. Nhưng làm thế nào mà bắt họ ăn cho được?
Không
có khí thế hừng hực đấu tranh như những người Cộng Sản ở Sơn La, Côn Ðảo tuyệt
thực, không có hô khẩu hiệu, tất cả đều lặng lẽ ngồi im.
Không
thể dùng lưỡi lê và sức mạnh để nhét cơm vào mồm họ được.
Họ
không ăn, thế thôi. Không hò reo, không gõ bát, gõ đĩa, không ai diễn thuyết,
kích động, yêu sách điều gì.
Im
lặng, ai ngồi chỗ ấy. Giám thị Sáng đứng đó, không một ai thèm nhìn vào mặt ông
ta cả. Tất cả đều quay mặt đi chỗ khác.
Giám
thị Sáng đành phải ra về.
Ðêm
đến: Tôi đói không thể nào ngủ được. Ðã một ngày trôi qua, và hai bữa không ăn.
Suốt mười năm tù đầu tiên, tôi không bỏ một bữa cơm nào, ngoài hai bữa hôm ấy.
Chỉ
có khi nào đến ngày giỗ người sinh ra tôi bị bắn chết, là tôi lặng lẽ khai ốm
và báo cháo, vì tôi nghĩ: Ðói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết.
Dạ
dầy tôi là dạ dày thép, nó ngốn và nghiền nát tất cả mọi thứ mà đối với người
khác bình thường, cùng tù với tôi cũng không kham nổi.
Sắn
sống, khoai sống, ngô sống, om on sống, cả cây ngô non tôi cũng ăn được, khoai
hà chỉ có ngỗng mới ăn, tôi cũng ăn được khoai sọ tôi ăn cả vỏ, dong riềng ăn
cả vỏ, có lần đi làm tôi lẩn vào ruộng trồng đỗ Mèo ních một bụng quả đỗ sống,
chiều về say gần chết.
Ra
suối tắm, quả vả mọc hoang tôi bứt ăn, cũng say gần chết.
Chỉ
gần chết thôi chứ chưa chết hẳn. Ngất ngư lảo đảo thôi.
Sắn
ăn say, ngày nào mà tôi chả say sắn, mà theo cái đầu óc ngu dốt của tôi chính
có lẽ do say sắn triền miên mà tôi vẫn còn sống đến hôm nay.
Chả
là rét quá, tôi bị sưng phổi. Cứ thấy ho, sốt, rồi tôi không dám nói láo cứ cúi
xuống ngẩng lên là nghe trong phổi có tiếng óc ách...
Ở
Cổng Trời không phải khai ốm, vì có còn khai với ai được. Ốm mặc, không có
thuốc men gì hết.
Quản
giáo trực thấy tôi nằm ốm, hỏi làm sao. Hỏi để mà hỏi. Rồi thôi. Ðể đấy. Tôi cứ
ăn sắn, say sắn. Và rồi khỏi. Mọi người: đều coi chuyện đó là chuyện thường
tình.
Mãi
đến khi về, năm 1970 tôi đi khám ở bệnh viện A để kiểm tra phổi. Sau khi chụp X
quang, kết luận: dầy dính màng phổi. Bác sĩ Kim hỏi tôi là tôi bị sưng phổi bao
giờ và ở đâu hút cho.
Tôi
trả lời là quên mất thời gian và chưa ai hút ra bao giờ. Bác sĩ Kim rất ngạc
nhiên.
Qua
chuyện trên, tôi đi đến kết luận là Acide Cyavidrique nghĩ thế, theo đầu óc ngu
dốt của tôi thôi.
Ở
Cổng Trời, khu nọ cách biệt với khu kia bằng một hàng rào bao quanh khu. Cấm
liên lạc nhưng khi trả thùng cơm canh, thì đem đến một cái sân chung để nhà bếp
tiện lên lấy. Có lần khu C: họ được mua sắn cải thiện để ăn thêm. Chả hiểu sao
cả khu say, và chết đâu mất năm người.
Sáng
ra, quản giáo trực vào thấy chết vì say sắn bèn ra lệnh tịch thu số sắn còn
lại, cấm không cho ăn, và đem ra tập trung ở chỗ trả thùng cơm.
Hôm
ấy đến lượt tôi bưng thùng ra trả. Tôi thủ ngay gối một thùng sắn luộc rồi giấu
vào bụng đem về buồng ăn.
Cái
vị tu sĩ bảo tôi: Họ ăn chết hàng loạt kia kìa, lấy về làm gì?
Tôi
bảo: Họ có nhiều họ ăn mới chết! Chứ mình cứ củ một ăn, chết thế nào được. Và
tôi ăn. Ăn củ một, thấy đắng quá thì thôi. Hơi say một chút chẳng sao cả. Và
những chất say ở sắn đã làm tôi khỏi bệnh phổi, làm tôi no, và có thêm một hiện
tượng là hai bên quai hàm tôi to bạnh ra. Say sắn có khổ nhưng không khổ bằng
đói: tôi chọn cái ít khổ hơn.
Ðiều
này là sự thật 100%, cứ ăn sắn nhiều là hai bên quai hàm to bạnh ra. Xin các
nhà khoa học giải thích hộ cho. Kể lại với quý vị như thế, để quý vị biết tôi
đói đến thế nào. Tôi đói lắm ấy!
12
kg cả gạo cả sắn một tháng, với sức tôi cao 1m76 nặng 78kg và ba mươi tuổi thì
các vị chắc cũng hiểu cho được.
Còn tiếp
Kiều Duy Vĩnh
Sunday,
July 22, 2012 1:42:50 PM
Kỳ
8
Lại
quay trở về với câu chuyện tuyệt thực. Thế là qua một ngày và hai bữa không ăn.
Tôi
xin phép được nhắc lại, mười năm tù đầu tôi không nhịn bữa nào ngoài hai bữa
cơm tuyệt thực đó, và tất nhiên là tôi đói lắm. Ở trong Mein Kamp (Cuộc Chiến
Ðấu Của Tôi) Hitler viết: “Cái đói nó theo tôi như một cái bóng...” tôi xin
thêm: Nó hành hạ tôi khổ sở nữa.
Tối
hôm đó, đã hơn chín giờ mà tôi không thể nào ngủ được, cứ trở mình trằn trọc.
Tu
sĩ Chính tức Nhẫn ở xứ Trung Ðồng Thái Bình, nằm cạnh tôi khỏi khẽ:
“Ðói
không ngủ được à.”
“Vâng,
đói lắm không ngủ được.”
“Vậy,
có lẽ mai Vĩnh cứ ăn đi. Tôi sẽ đứng ra chia cơm để Vĩnh ăn nhé.”
“Tôi,
xin thưa rằng, phần xác tôi nặng, nặng lắm nhưng cơ thể tôi lúc đó thì rất nhẹ.
Tôi cân nặng 49kg.”
Tôi
gầy đến “lõ đít” ra. Tôi xin phép được dùng từ này, vì đúng là tôi gầy đến như
vậy. Những lúc ngồi chơi, hoặc luyện yoga tôi nhìn xuống đùi, đầu gối ống chân
đều trơ xương ra khẳng khiu khô khắc.
Trước
đó ít hôm ra khênh cơm vào, có một anh bạn ở nhà bếp nhìn thấy tôi ra hiệu bằng
cách lấy hai bàn tay vuốt vào hai má, chúm cái miệng lại ra cái điều là gầy quá
má hóp, vêu miệng.
Tôi
cũng biết vậy, tôi yếu lắm rồi, tay nắm không chặt, hai bàn tay xoa vào nhau
như sự cọ xát của hai thanh củi khô, không có cái mềm mại của da thịt. Ở Cổng
Trời này không có gương để soi, xem mặt mũi hình hài của mình nó ra sao. Mỗi
lần cắt tóc, quản giáo đưa cho một cái tông đơ, cắt cả tóc lẫn râu thế thôi
không có gương lược, dao kéo gì. Có lần muốn nhìn cái bản mặt mình, tôi đã bắt
chước Nguyễn Tuân đái một bãi xuống đất rồi soi mặt mình vào đó. Nào có thấy rõ
chó gì đâu mà cái nhà ông Nguyễn chỉ nói ngoa ngôn, phóng đại xui dại anh em
thôi.
Vì
gầy thế, nên hai cái mông teo lại, cái xương cùng nó thò dài ra, khi đi ngoài,
chùi nó chạm đâm vào tay mình.
Chính
lúc ấy tôi mới cảm nhận thấy hết cái từ gầy lõ đít.
Mười
năm tù, lúc nào tôi cũng ước ao có một bữa no, thèm muốn làm sao mà được ngồi
trước nồi cơm nóng bốc hơi nghi ngút, muốn ăn bao nhiêu thì đơm bấy nhiêu, và
có đầy một bát muối để ăn cho mặn. Cả muối tôi cũng thèm nhạt. Chỉ có một ước
muốn đơn sơ ấy, thế mà suốt trong 10 năm tù lần thứ nhất ngay cả ở các trại
dưới tôi cũng không đạt được nói chi nữa là ở trại Cổng Trời này.
Tất cả các nhà tù của Cộng Sản miền Bắc mà tôi đã đi qua
và sống ở đó đều đói và có thể chết đói được.
Khi
còn ở trại Bất Bạt Sơn Tây, tôi ở toán kiên giam, biệt lập: phải xay lúa giã gạo
ở khu biệt lập kiên giam này, tôi nhớ tới phim “Samson và Ðalila” anh chàng
Samson mù quay cối xay. Chúng tôi cũng vậy. Rào kín và hẹp chả nhìn thấy gì ở
ngoài cả. Chế độ ở kiên giam Bất Bạt cũng học đòi cách quản lý và đối xử với tù
của Cổng Trời, nhưng mà là học trò hạng bét.
“Cũng
tù hình sự đem cơm đến để đấy rồi chạy.”
“Cũng
không được ra khỏi khu cấm!”
Nhưng
vẫn còn được viết thư về nhà và còn được gặp và nhận đồ tiếp tế của người nhà
đi thăm nuôi.
Chứ
ở trại Cổng Trời Cắn Tỷ không một ai được thăm nuôi. Không một ai trong suốt
thời gian bảy năm tôi ở đó.
Khi
đói, tôi kêu. Tôi kêu đến nỗi quản giáo phụ trách giáo dục tên là Kích người
liên khu năm Bình Ðịnh đi tua nghe thấy, gọi tôi ra ngoài lục vấn, lên lớp và
đe dọa tôi:
“Anh
Vĩnh, anh định kích động mọi người, phải không. Cẩn thận. Không có lại đi suốt
đấy.”
“Thưa
ông, tôi đói thật, ông ạ. Phàm cái gì uất ức, đau khổ quá cũng phát ra thành
tiếng. Có thế thôi.”
“Thứ
tôi mà đi kích động hở ông. Vả lại tôi là một sĩ quan chiến đấu, võ biền. Ông
xét xem, tôi sẽ kích động được ai trong số những tu sĩ ở cùng với tôi trong
buồng. Tôi nói rất thật, để chứng minh điều đó ông làm ơn xúc cho tôi một bát
cám lợn kia tôi sẽ ăn hết ngay trước mặt ông cho ông xem (chả là chỗ nói chuyện
gần chỗ nuôi lợn của nhà bếp mà).”
Chừng
quản giáo Kích cũng hiểu ra, nên không trấn áp tôi thêm nữa cho tôi trở về
buồng.
Trên
đường về đi qua giàn su su, quả mới bé bằng ngón tay cái, tôi vốn cao, nên với
tay vặt ngay lấy dăm bẩy quả đút túi về ăn sống.
Trần
Liệu bảo tôi: “Ðược ra khỏi buồng, bất cứ cái gì động đậy đều vồ lấy ăn hết,
chỉ trừ khi vồ nó mà nó kêu ‘Ối giời ôi’ thì chịu không ăn mà thôi.”
Hắn
ăn giun, ăn dế, ăn gián, ăn cả trứng con bọ hung nữa...
Chúng
tôi cười với nhau.
Trần
Liệu cũng đói lắm? Hắn to con gần bằng tôi và vốn là đồ tể Quỳnh Lưu Cầu Giát,
rất thích ăn tiết canh “me” (bê non).
Nhưng
tôi cũng phải phục hắn; thế mà hắn cũng chịu được hai ngày liền theo các đấng
bậc tu sĩ đấy.
Hắn
là con chiên cực kỳ ngoan đạo. Ông Chính bảo tôi: “Mai tôi sẽ chia cơm để Vĩnh
ăn. Vĩnh cứ ăn đi. Không sao cả. Có gì tôi sẽ nói với anh em trong phòng để họ
cảm thông trường hợp của Vĩnh.”
Tu
sĩ Chính là người có uy tín nhất ở trong số tu sĩ còn lại đó.
Tôi
im lặng. Ðối với ông, tôi có một món nợ lớn lắm! Lớn lắm mà không bao giờ có
thể trả được.
Tôi
vốn có duyên nợ nhiều với đất Thái Bình và ông, ông là người sinh ra ở đó và tu
ở đó. Tôi và ông có rất nhiều điểm tương đồng. Ông hay nói chuyện với tôi lắm.
Tôi
ở với ông từ ngày đầu đi tù, từ trại Bất Bạt Sơn Tây lên ở khu A Cổng Trời, ở
cho đến lúc ông bị gọi đi chết.
Còn tiếp
Kiều Duy Vĩnh
Monday,
July 23, 2012 1:03:59 PM
Kỳ
9
Những
năm 50, ở Thái Bình tôi có may mắn gặp đức giám mục người Tây Ban Nha coi sóc
địa phận, cha Chính, cha Trụ ở thị xã, rồi các cha ở Sa Cát, Phương Xá, Bái Bồ
Trung, Phù Lưu (ngã ba Ðọ) Cao Mái. Tôi hành quân giải vây cho các nhà thờ bị
vây hãm.
Tóm
lại tôi có nhiều kỷ niệm đẹp về các xứ đạo ở đó lắm.
Tôi
nói chuyện vói tu sĩ Chính về các kỷ niệm xưa đó, hai ngươi rất tâm đầu ý hợp.
Thấy
tôi kêu la nhiều. Có một hôm, tu sĩ Chính ốm, ốm ở đây ít ai bỏ ăn. Ở Cổng
Trời, ốm phải không? Tốt. Tốt lắm! Nếu ốm chết thì hay quá: Khỏi phải giết! Ðỡ
mệt hơn.
Hôm
ấy tu sĩ Chính bỏ ăn. Ông rất ít khi ốm, từ Bất Bạt tôi thấy ông không ốm bao
giờ tuy rằng ông rất gầy và xanh. Nhưng sự chịu đựng gian khổ, đầy đọa của ông
thì tôi phải ngả mũ kính cẩn vái chào.
Lúc
nào cũng ôn tồn, nhỏ nhẹ, điềm tĩnh cười nói như không cho dù có điều gì xảy
ra.
Tôi
còn mấy viên thuốc cảm, đưa ông dùng ông bảo không sao đâu. Chỉ có miệng ông
đắng và bụng ông nó không ổn, thế thôi. Buổi chiều qua đi ông cũng bỏ cơm.
Chúng tôi thường ăn vào độ ba, bốn giờ chiều. Cấm mọi hình thức nấu nước đun
lại. Với chúng tôi chín giờ đêm là khuya rồi. Tu sĩ Chính lay tôi dậy và bảo:
“Vĩnh
ăn hộ tôi đi, chứ để mai thiu, bỏ đi. Phí của lắm.”
Tại
sao tôi lại có thể ăn suất cơm của tu sĩ Chính như thế được chứ. Tôi từ chối:
Tu sĩ cố ăn đi chứ?
“Thật
tình tôi đắng miệng lắm, và bụng tôi nó nóng như lửa, quặn đau lắm, không thể
ăn được. Vĩnh ăn hộ tôi đi.”
Không
để đến mai thì phải đổ đi mất! Họ có cho đun đâu mà bảo nấu lại được.
“Ăn
đi. Ăn hộ tôi, khỏi phí. Vĩnh ạ.”
“Nếu
Vĩnh không ăn, sáng mai nhà bếp nó lên nó lấy đồ cho lợn thì uổng lắm Vĩnh ạ.”
Tôi
nghĩ thấy đúng như ông nói. Ở các trại dưới, cơm có thể phơi khô để dành. Chứ
còn ở đây, thì chỉ còn có đổ xuống nhà bếp cho lợn ăn mà thôi.
Thế
thì tại sao lại cho lợn ăn nhỉ? Trong khi ấy tôi đói, tôi đói lắm, tôi thèm
lắm. Tôi thấy thế và nghĩ đúng như thế.
Lúc
đó đã là 10 giờ đêm rồi.
Thế
là tôi ăn hai suất cơm đó, các vị đọc tới đây, tất có vị sẽ chửi rủa tôi. Xin
các vị cố hiểu mà đánh chữ đại xá cho.
Tôi
ăn, ăn cả hai suất cơm canh trong nháy mắt và nằm ngủ.
Ngủ
yên và say cho đến sáng. Lâu lắm tôi mới được “sínđề” và được một bữa tương
đối.
Cám
ơn tu sĩ Chính tức Nhẫn. Cám ơn nhiều.
Sáng
hôm sau, như thường lệ, mọi người và cả tu sĩ Chính dậy sớm cầu kinh và ông bảo
tôi ông thấy đỡ nhiều. Chỉ đến chiều hôm ấy, tôi đã hiểu ra là tu sĩ đã nhịn cho
tôi ăn.
Cám
ơn ông. Cho đến tận hôm nay ba mươi năm trôi qua tôi vẫn còn món nợ đối với ông
mà không thể nào trả được.
Chỉ
còn biết cầu Chúa, để Chúa biết đến sự hy sinh cao cả của ông, đến sự vất vả
nhọc nhằn của ông khi ông vác cây thánh giá của Chúa theo Chúa đến chết.
Cầu
sao cho linh hồn ông được tới thiên đàng.
Sáng
hôm thứ hai của sự tuyệt thực, tù lại khênh cơm lên.
Quản
giáo lại đứng đấy để giám sát. Không ai nhúc nhích gì. Không ai ăn cả, kể cả
tôi. Lúc ấy tu sĩ Chính đứng dậy cầm bát chia cơm canh của tôi ra cái thùng gỗ
của nhóm năm người, tôi vẫn ăn cùng với tu sĩ. Tu sĩ Chính xúc vào bát của tôi,
cơm canh đầy đặn và lặng lẽ bê đến trước mặt tôi.
“Ðây
phần của anh, anh ăn đi và về ngồi lại ở chỗ mình.”
Một
lần nữa tôi lại xin các vị cố hiểu cho tôi và bỏ qua cho tôi.
Tôi
không theo đạo Thiên Chúa và không làm dấu thánh bao giờ.
Tôi
ăn. Hà tất gì tôi lại nhịn không ăn. Không có điều gì thúc đẩy buộc tôi bắt tôi
không ăn cả.
Tôi
nghĩ đúng như vậy.
Nhân
cơ hội ấy. Quản Giáo bèn lên tiếng:
“Ðấy
các anh thấy không? Anh Vĩnh, anh ấy ăn cơm không cần làm dấu thánh. Có sao đâu
nào. Anh ấy vẫn ăn được một cách ngon lành, thế thì tại sao các anh lại không
ăn?
Các
anh là đồ ngu dốt, cuồng trí, dại dột dám chống lại đảng và chính phủ.
Rồi
các anh sẽ biết.”
Không
một tu sĩ nào trả lời đáp lại.
Có
tôi lên tiếng:
“Xin
lỗi ông, chắc ông đọc lý lịch của tôi thì ông đã rõ, tôi không theo đạo nào cả?
Phật không, chúa cũng không, mà lệnh của các ông thì chỉ có cấm làm dấu thánh
trước khi ăn mà thôi. Tôi, tôi từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa làm dấu thánh bao
giờ. Vì vậy tôi ăn có thế thôi.”
Ðứng
cho đến lúc tôi ăn xong. Quản giáo thấy trơ trẽn quá, quay gót khóa cửa ra về.
Ðến
buổi chiều không thấy mặt ai cả. Cả giám thị, cả quản giáo cả lính coi tù.
Tu
sĩ Chính đứng dậy chia cơm cho một mình tôi. Tôi ăn.
Các
đấng bậc và kể cả T.H Liệu cũng không ăn.
Hai
ngày trôi qua.
Sáng
hôm thứ ba tù khênh các thùng cơm canh nguội lạnh còn nguyên xuống nhà bếp và
rồi lại khênh lên với cơm canh mới hãy còn nóng.
Không
có ai đi kèm.
Ban
giám thị không.
Quản
giáo không.
Khênh
cơm canh vào buồng. Khóa cửa lại.
Chia
đều.
Và
các đấng bậc tu sĩ lại làm dấu thánh trước khi ăn.
Chẳng
ai cười cợt, nói năng, hát hò, reo vui gì trước cuộc đấu tranh đã giành được
thắng lợi lẫy lừng và vang dội đó (như các bài báo của Cộng Sản mà tôi đã đọc
riết về các cuộc tuyệt thực của họ cả).
Và
cuộc sống của chúng tôi lại lặng lẽ trôi như thế cho đến khi tôi được về và các
vị còn lại chết hết.
1/8
Âm lịch năm 1994
Còn tiếp
Kiều Duy Vĩnh
Tuesday,
July 24, 2012 1:02:58 PM
Kỳ
10
1.
Tết ở trại Cổng Trời
Ở Cổng Trời tất cả có năm khu:
Khu O, khu H; rồi đến khu A, B, C. Tôi chịu không đoán ra tại
sao lại là khu O, khu H, cũng như cái địa chỉ C65 HE và 75A Hà Nội.
Khu
O và khu H, tôi không biết nó thế nào. Chịu. Không hình dung ra nổi, vì tôi
không nhìn thấy ai ở đấy và không hề gặp ai ở trong đó ra kể chuyện lại để
biết. Chỉ nhìn thấy Cha Vinh, Cha Quế vào đó và không thấy hai cha đó ra về nữa
mà thôi.
Có
lẽ ở hai khu đó chết hết không còn ai cả. Không còn một ai để kể lại, để viết
lại những gì đã xảy ra tại đó.
Chỉ
duy nhất có một lần một người tù hình sự bảo với tôi khi tôi được tự do, là ở
đó có hầm đá, quan tài đá và chôn một người chết ở đó được thêm một cân lòng
trâu. Thế thôi. Không còn biết gì hơn nữa.
Nhưng
Khu A, Khu B, Khu C thì tôi biết rõ vì tôi lần lượt ở cả ba.
Khu
A thì (tính đến 1967) chết gần hết chỉ còn tôi và Trần Huy Liệu người Cầu Giát,
Quỳnh Lưu.
Khu
B thì chết ít hơn, Khu C thì phần lớn còn sống trở về.
Ðấy
là nói những năm về sau: thập kỷ 70, còn 72 người đầu tiên lên trại Cổng Trời
năm 1960 thì hiện nay (1997) tôi chỉ còn gặp lại mỗi một anh Nguyễn Hữu Ðang
người đứng đầu Nhân Văn Giai Phẩm mà thôi. Nghĩa là 70 người kia chẳng còn ai
cả.
Coi
sóc cả ba khu là một phó giám thị, tôi không còn nhớ tên, chỉ còn nhớ y là
người Ðức Thọ, Hà Tĩnh cùng quê với cố Hoàng (có hai con trai sinh đôi là Song,
Toàn).
Trông
phó giám thị như quỷ sứ hiện hình. Ðen đủi mắt nọ chửi mắt kia, mồm méo xệch.
Lúc nào cũng lừ đừ lừ đừ, lủi thủi như ma hiện hình. Ðột ngột đến, đột ngột đi,
lúc nào cũng rình mò chộp, giựt một cái gì đó. Nhìn ai thì trợn trừng, trợn
trạc như muốn giết người ta. Cố Hoàng bảo: “Tôi biết hắn lắm mà. Hắn giết nhiều
người lắm đó.” Tuy đồng hương, nhưng hắn không nói với cố Hoàng bao giờ cả.
Ðột
ngột đến, xông vào buồng, xộc vào tận ngóc ngách nhìn soi mói, sờ nắn nếu có gì
nghi ngờ, có thể chui ngay xuống gầm bàn nằm, để móc ra một cái gì đó.
Có
một lần khi mới lên, Trần Huy Liệu thấy hắn vào buồng bèn thắc mắc:
“Thưa
ông.”
“Gì?”
“Ăn
uống ở đây kém quá, ông cho biết tiêu chuẩn của chúng tôi được như thế nào?”
“Cái
gì.
“Tiêu
chuẩn à. Các anh không có tiêu chuẩn gì hết. Cho thế nào ăn thế.”
Hết.
Phó giám thị đi tiếp. Và rồi Chánh Giám Thị Vũ Ðình Nhân nói về số phận của
chúng tôi. Thế là đã rõ ràng. Chúng tôi đành cam chịu.
Mỗi
khu có chế độ đối xử riêng:
Khu
A: Hưởng đồng loạt: 12 kg sắn cộng gạo một tháng, được ngồi chơi trong buồng
giam không phải làm gì cả. Cứ ở trong kiên giam suốt ngày đêm. Không được viết
thư, không được nhận thư, không sách, không báo, không một mẩu giấy, không một
cái bút.
Khu
B: Ăn 13 kg 5 đến 15 kg sắn cộng gạo một tháng. Ðược ra ngoài hè nhà đan lát,
chẻ tăm làm việc vặt. Sáu tháng được viết thư một lần và được nhận thư.
Khu
C: Ăn 15 kg đến 18 kg sắn cộng gạo một tháng. Ðược lao động ở sân trại: đánh đá
xây trại, xây nhà, thợ mộc thợ nề biết gì làm nấy. Ba tháng viết thư một lần.
Ðược mua thêm sắn, khoai, dong riềng, thịt trâu ăn thêm. Ðược coi là những tù
nhân có phần nào đã chịu cải tạo. Ðược đối xử khá hơn Khu A và Khu B, tuy vẫn ở
trong bốn tường rào và vẫn chịu sự kiểm soát ngặt nghèo.
Nhưng
tất cả đều không được gặp người nhà và không được nhận tiếp tế, thăm nuôi.
Tôi
đã nói ở trên: Khu C có một lần được mua sắn về luộc ăn. Say sắn chết mất năm
người.
Ðầu
năm 1965 thì tôi được sang Khu C và đến năm 1965 thì tôi được về xuôi tại Phú
Sơn 4, Thái Nguyên.
Cái
Tết đầu tiên ở Cổng Trời năm Nhâm Dần 1961, tôi được hưởng một cái Tết đặc biệt
nhất trong đời tôi.
Ở
Cổng Trời một năm chia làm hai mùa: Mùa nóng bắt đầu từ Tháng Năm; mùa rét từ
đầu Tháng Chín. Nóng ít hơn rét. Tuy là nóng nhưng đêm vẫn phải đắp chăn vì khí
lạnh từ núi đá và tường đất tỏa ra.
Nguyễn
Hữu Ðang sáu tháng tắm một lần. Anh bảo: “Có ai chết vì không tắm đâu. Cậu xem
đấy những anh nghiện thuốc phiện cả đời có tắm bao giờ đâu chả sao hết.”
Anh
Ðang đúng quá đi chứ. Những lúc đói rét, cơ hàn thiết thân tôi mới thấm câu:
Ðói cho sạch, rách cho thơm. Ðói thì làm sao mà sạch cho được. Ðói rét, nhúng
tay vào nước còn ngại nữa là tắm. Còn đã rách mà còn đòi thơm nữa. Các cụ nhà
mình thật quá khe khắt với con cháu.
Tôi
nửa tháng không dám rửa chân. Vì nếu rửa chân thì cái lạnh cứ bám lấy đôi bàn
chân mấy ngày không ấm lại được. Suốt ngày đêm ngồi co ro trên sàn gỗ có bẩn
đâu mà phải rửa. Còn rửa mặt, thì Trần Liệu hàng tháng không đánh răng rửa mặt.
Mắt anh đầy dử, và mồm anh ta vêu ra đầy bựa.
Cứ
khi đói là anh nói chuyện với tôi về Cầu Giát Quỳnh Lưu Nghệ An quê anh: về
thịt trâu, thịt bò, thịt me (bê), thịt lợn, thịt nghé rồi cá chim, cá thu, cá
ngừ, cá dưa, cá cơm, cá cháo.
Vui
đáo để và buồn cũng đến não lòng.
Ðầu
óc anh thật đơn giản nhưng vô cùng tốt lành. Có lần đúng ở cửa sổ nhìn ra sân
trại, anh quay lại bảo với tôi: “Chiều nay ăn 'chốc tru.'”
Tôi
ngớ người ra không hiểu. Anh nhắc lại” “Chốc” là đầu, “tru” là trâu: đầu trâu.
Anh rất méo mó nghề nghiệp. Anh giảng cho tôi biết: “Ðừng tưởng 'chốc tru' là
toàn xương đâu. Khối thịt ra đấy. Bỏ sừng đi. Còn lại hai phần ba là thịt đấy.”
Còn tiếp
No comments:
Post a Comment