Người Việt
Monday,
July 09, 2012 6:48:48 PM
HÀ NỘI (NV) - Ông Kiều Duy Vĩnh, một trong
những tù nhân nhân chứng của nhiều nhà tù nổi tiếng “địa ngục trần gian” trong
chế độ Cộng Sản, vừa mới qua đời.
Cha
Ða Minh Vũ Quang Mỹ, chính xứ Tư Ðình, đang trao nến sáng cho ông Vĩnh. (Hình:
Nữ Vương Công Lý)
“Gia
đình thân tộc, bạn bè vừa cho biết tin ông Phao lô Kiều Duy Vĩnh đã được Chúa
gọi về lúc 4 giờ chiều ngày Thứ Bảy ngày 7 tháng 7 năm 2012. Thánh lễ an táng
cử hành lúc 10 giờ sáng nay 9 tháng 7, 2012 tại nhà thờ giáo họ Ngọc Lâm. Thánh
lễ an táng do Linh Mục Ða Minh Vũ Quang Mỹ chủ sự.”
Bản
tin của Nữ Vương Công Lý hôm Thứ Hai cho hay như vậy.
Ông
Kiều Duy Vĩnh, 81 tuổi, cựu học sinh Bưởi-Chu Văn An, cùng một khóa Võ Bị Ðà
Lạt với ông Nguyễn Cao Kỳ. Khi đất nước chia hai năm 1954, ông là đại úy tiểu
đoàn trưởng nhảy dù có nhiều chiến công nhưng đã quyết định ở lại miền Bắc vì
vấn đề gia đình. Cha ông bị đấu tố, tử hình vì bị quy cho tội địa chủ. Còn ông
thì bị đi ít nhất hai lần chính thức, tổng cộng 17 năm.
Nếu
ông theo đơn vị di cư vào Nam, có thể quân đội VNCH đã có một tướng lãnh tên
Kiều Duy Vĩnh.
Các
năm tù đày được ông kể lại trong các hồi ký (phần lớn đăng tải trên tạp chí Thế
Kỷ 21 nhiều năm trước) viết khá vắn tắt nhưng những ai đọc khó tránh khỏi xúc
động. Sự độc ác dã man đến cực độ của bọn cai tù Cộng Sản, sự can đảm cực độ
của các tù nhân dù là giáo dân cho đến tu sĩ, linh mục Công Giáo mà ông gọi là
các “thánh tử đạo” được ông kể lại trong các hồi ký với sự ngưỡng phục.
Ông
Vĩnh không phải là tín đồ Công Giáo. Ngày 14 tháng 3 năm 2011, ông đã xin trở
thành tín đồ Công Giáo, lấy tên thánh là Phaolô và được Linh Mục Ða Minh Vũ
Quang Mỹ của họ đạo Tư Ðình (Hà Nội).
Một
số hồi ký của ông có thể đọc trên www.vantuyen.net như “Cuộc tuyệt
thực”, “Tết ở trại Cổng Trời”, “Ðức Thánh Tử Vì Ðạo thứ hai mà tôi được gặp”.
Hồi ký “Cổng trời Cắn Tỷ” có thể tìm thấy trên net khi tra qua mạng tìm kiếm
Google.
Suốt
những năm tù, đặc biệt là tại nhà tù Cổng Trời (tỉnh Hà Giang), ông có dịp ở tù
chung với một số linh mục, tu sĩ Công Giáo như cha Chính Vinh (cha xứ nhà thờ
chính tòa Hà Nội), tu sĩ Ðỗ Bá Lung. Ông kể lại những tháng năm kinh hoàng này
trong hồi ký “Cổng trời Cẳn Tỷ”.
Ông
đã viết về những bạn tù Công Giáo bằng những lời lẽ đầy thán phục: “Tôi đã thật
sự gặp các vị thánh tử vì đạo. Các vị thánh tử vì đạo bằng xương bằng thịt sống
cạnh tôi nhiều năm... Tôi vốn xa lạ với các tên Phêrô, Phaolồ và Mađalena.
Nhưng cái tên Ðỗ Bá Lung thì cho đến hết đời tôi không thể nào quên được”.
Ở
một giai đoạn ông bị giam ở Cổng Trời, ông kể rằng ông và ông Nguyễn Hữu Ðang
(người tù trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm) là hai người duy nhất sống sót trong
số 72 tù nhân. Lý do sống sót được ông kể lại: “Tôi sở dĩ sống sót là vì tôi
không phải là người theo đạo. Nếu tôi mà đeo Thánh giá ở ngực và biết câu kinh
thì tôi phải chết đã lâu rồi”.
Ông
đã chứng kiến cái chết của tu sĩ Ðỗ Bá Lung, được hai tù nhân bó chiếu khiêng
đi chôn nhưng mấy ngày sau thì trở về trình diện quản giáo. (T.N.)
Kiều
Duy Vĩnh
Sunday,
July 15, 2012 1:59:13 PM
LTS: Ông Kiều Duy Vĩnh
là một trong những chứng nhân của sự độc ác cùng cực của cai tù CSVN tại nhà tù
“Cổng Trời” tỉnh Hà Giang. Ông mất ở Việt Nam ngày 7 tháng 7, 2012 vừa qua, thọ
81 tuổi. Ông từng tốt nghiệp Võ Bị cùng khóa với ông Nguyễn Cao Kỳ, là đại úy
tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù. Năm 1954 ông đã không theo đơn vị di cư vào Nam vì lý
do gia đình. Ông đã bị bỏ tù hai lần 17 năm trong đó có nhiều năm ông bị giam ở
“Cổng Trời,” nơi ông và một người nữa (ông Nguyễn Hữu Ðang trong nhóm Nhân Văn
Giai Phẩm) sống sót trong số 72 người tù ở cùng một phân trại. Ông kể lại những
ngày tù ở “Cổng Trời” qua các hồi ký từng phổ biến trên tạp chí Thế Kỷ 21 cách
đây hơn chục năm. Trong các hồi ký này, ông kể về sự kiên cường giữ vững niềm
tin tôn giáo của các giáo dân, tu sĩ và linh mục Công Giáo mà ông gọi là “các
Thánh Tử Ðạo”.
--------------------------------------------
Kỳ
1
Tôi sở dĩ sống đến hôm nay là vì tôi không phải là người Thiên
Chúa Giáo. Nếu tôi mà đeo Thánh Giá ở ngực và biết câu Kinh thì tôi phải chết
đã lâu rồi, từ những năm 60 của thế kỷ này, khi còn đi tù đày ở Cổng Trời kia.
Hình :
Kiều Duy Vĩnh, tác giả “Cuộc tuyệt thực ở Cổng Trời”
Ngày ấy tuy qua mà
như còn đấy...
(Chí
Thiện)
Chúng
tôi được tập trung ở Hỏa Lò Hà Nội từ khắp mọi miền đất Bắc, từ vĩ tuyến 17 trở
ra: Vĩnh Linh, Quảng Bình, Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa, Mỏ Chén, Bất Bạt, Sơn La, Yên
Bái, Lao Kay.
Tay
xích còng số 8, hai người một.
Hàng
đầu: Cha Vinh (địa phận Hà Nội) người bị kết án có 18 tháng tù thôi thế mà hóa
ra án tử hình. Cha Quế, địa phận Xã Ðoài, Nghệ An. Thứ đến là Nguyễn Hữu Ðang,
người cầm đầu Nhân Văn Giai Phẩm. Tu sĩ Ðỗ Bá Lung, tu sĩ xứ Ngọc Ðồng Hưng Yên
(nay là Hải Hưng), khét tiếng chống Cộng Sản (1). Tiếp sau đó là một lũ tù dây,
đầu trần trán khỉ, hôi hám rách rưới, chống bướng, cứng đầu cứng cổ không chịu
sự cải tạo của đảng và chính phủ, bọn “dám bẻ que chống trời...
Chúng
tôi lên xe đi. Súng ống bao quanh. Ði đâu?
Không
ai ai biết cả. Cả những người cầm súng, cũng không biết. Có lẽ chỉ có một người
biết. Người đó xách cặp đen đựng danh sách tù nhân, mặt mũi tử tế, ăn mặc dân
sự chỉnh tề, đi trên chiếc commăng ca dẫn đường.
Chỉ
biết là chúng tôi đi lên hướng Bắc. Ngày đó đường sá đầy ổ gà ổ voi, xe đi
chậm. Mãi trưa chúng tôi mới tới Vĩnh Yên. Nghỉ lại ăn cơm trưa.
Tôi
ngồi gần Nguyễn Hữu Ðang, thấy người xách cặp đen đi qua để “kiểm tù” nói năng
lễ độ tử tế, nhẹ nhàng.
“Anh
Ðang, anh có khỏe không?”
“Vâng,
tôi khỏe”.
Hai
người nhìn nhau thông cảm:
“Anh
có yêu cầu điều gì không?”
“Không.
Cám ơn.”
Người
đó lặng lẽ đi tiếp.
Chúng
tôi lại tiếp tục đi lên phía Bắc. Ðến Ðoan Hùng. Lúc đó chưa có cầu. Chúng tôi
phải xuống xe chờ phà. Ðể tránh sự chú ý: Họ lùa chúng tôi vào sâu trong ngõ
cạnh đường, ở đó có một trường học. Có lẽ cấp hai. Các em học sinh và các thầy
cô giáo tò mò ra xem lũ tù đày. Họ chỉ trỏ xì xào, hỏi han.
Nguyễn
Hữu Ðang hỏi:
“Các
cháu có biết nhân vật lịch sử Cao Bá Quát không?”
Qua
phà chúng tôi đến Tuyên Quang ngủ lại trại giam Tuyên Quang. Lệnh: Không được
cởi xích tay. Qua một đêm không thể nào mà ngủ được. Thằng muốn đi ỉa đi đái,
phải đánh thức thằng tù đang ngủ dậy.
5
giờ dậy đi tiếp.
Kiểm
số tù lần cuối vẫn là ông xách cái cặp đen tử tế. Ông ta tỏ vẻ rất biệt đãi đối
với anh Ðang, làm tôi nghĩ đến chuyện “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân trong
“Vang Bóng Một Thời”.
Ðến
Hà Giang, sau khi ăn cơm trưa, chúng tôi đi tiếp vào một con đường mới mở, hẹp
và cheo leo. Mọi người nhìn nhau:
“Ði
mô?”
Mấy
ông Nghệ Tĩnh hỏi nhau.
“Có
lẽ sang Tàu.”
Anh Ðang bảo: “Lên
Cổng Trời Cắn Tỷ.”
Xe
đi chậm vì đường quá xấu. Thế rồi cũng qua được hết, qua đèo Quyết Tiến như là
đi máy bay, qua rừng, qua suối, qua mây, và rồi màn đêm buông xuống, chúng tôi
đi trong đêm. Tôi vốn là một sĩ quan rất giỏi về Topo, cố định hướng xem mình
đi về đâu, hướng nào và đã đi bao xa, nhưng lúc đó cũng chịu. Ðộ 2 giờ sáng đến
một địa điểm đèn đuốc sáng choang.
Lệnh
xuống xe.
Chúng
tôi bị lùa vào một khu rừng, và vào một cái nhà có tường dầy 0.80 mét bằng đất
nện, cửa lim, trong nền nhà mọc đầy cây nghệ, lá xách om mượt mà. Cửa khóa lại.
Không có đèn đóm gì. Tay hai người vẫn bị xích lại với nhau. Mỗi nhà nhận độ 20
người. Sờ soạng sắp xếp và ngủ tiếp.
Sáng
hôm sau, cửa mở, đem toàn bộ đồ dùng ra sân. Khám xét. Lục lọi. Tất cả cái gì
bằng kim loại, thánh giá, tràng hạt, kể cả cái thìa nhôm cũng bị tịch thu lấy
đi.
Xong,
đọc tên phân loại.
Khu
O. Khu H. Khu A. Khu B. Khu C. Khi đi và lúc đọc tên tôi nhẩm: có 72 người.
Phần lớn là già, đứng tuổi và 99 phần trăm là Thiên Chúa Giáo.
Cha
Vinh, cha Quế được gọi đi trước, đi về khu O. Nguyễn Hữu Ðang vào khu C. Tôi và
tu sĩ Ðỗ Bá Lung vào khu A. Khu A có hai nhà. Nhà tôi ở có: - Ðinh Hiền Lương,
tu sĩ dòng tu ép xác Châu Sơn, Ninh Bình, Ðức cha Lê Hữu Từ trước khi làm Giám
mục Phát Diệm đã tu ở đó. - Nguyễn Trung Chính, tức Nhẩm, tu sĩ xứ Trung Ðồng,
Thái Bình. Nguyễn Văn Khánh Sơn, giáo dân đeo kính cận người Nghệ Tĩnh. - Cố
Hoàng: giáo dân Ðức Thọ, Hà Tĩnh, có hai người sinh đôi là Song, Toàn để phân
biệt với - Tu sĩ Hoàng cũng Nghệ An. - Lưu Nam phụ trách thanh niên Công Giáo
địa phận Xã Ðoài. - Tu sĩ Bình, địa phận Thái Bình. - Tu sĩ Ðỗ Bá Lung xứ Ngọc
Ðồng, Hưng Yên. - Trần Văn Liệu, giáo dân làm nghề đồ tể ở Cầu Giát, Quỳnh Lưu,
v.v.
Nhà
rất rộng, có 2 sạp nằm đối đầu nhau. Chúng tôi là tù chính trị nên đều hết sức
tử tế nhường nhịn nhau, ai nằm đâu thì nằm không hề tranh giành cãi cọ.
Xếp
đồ đạc xong, đã đến giờ làm việc thiêng liêng, ai nấy đều cầu kinh và làm dấu
thánh giá.
Riêng
tôi, có mỗi một mình tôi, không biết cầu, không thuộc kinh bổn gì ráo trọi nên
tôi bèn nghĩ tới cái trò Yoga mà tôi đã đọc ở đâu đó. Những năm của thập kỷ 60
người ta ít biết và ít nói về cái trò đó. Tôi ngồi thở và sau đó Trần Văn Liệu
hỏi tôi “Ðược mấy cân hơi rồi.”
Ngày
đầu tiên ở Cổng Trời Cắn Tỷ chấm hết ở đó.
Sang
ngày thứ hai, mọi người dậy sớm. Cứ ngồi mà nhìn nhau. Không có nước để đánh
răng rửa mặt. Tám giờ, chín giờ rồi mười giờ. Vẫn im ắng như không. Các đấng
bậc tu sĩ lại cầu kinh. Tôi lại luyện yoga.
Hai
cái thùng đựng phân và nước tiểu bằng gỗ đều đầy cả. Nước đái tràn cả ra ngoài.
Mãi
đến 11 giờ, có tiếng gọi: “Lấy cơm.”
Có
hai tên tù hình sự ở trại ngoài khênh cơm đến để ở cửa rồi chạy biến. Cấm được
nhìn, được hỏi, được tiếp xúc trao đổi cái gì. Bọn kiên giam, biệt giam là cực
kỳ nguy hiểm, chúng giết người không gớm tay, bọn ăn gan uống máu đồng bào.
Nhưng
thật sự, nhìn kỹ thì:
-
Ðinh Hiền Lương dòng tu ép xác Châu Sơn xanh lướt như một cái bóng. Các tu sĩ
đều vậy cả.
-
Cố Hoàng thì chỉ có hát là cao giọng thôi, chứ đi đứng thì lẩy bẩy.
-
Khánh Sơn thì mù dở.
Nếu
ăn gan uống máu đồng bào được thì may ra có tôi và Trần Văn Liệu. Nhưng sau
những năm tháng tù đầy ở dưới đồng bằng, bị đói, bị khát bị quần cho đến tơi
người bản thân tôi, nắm tay không chặt thì còn làm gì được nữa. Ðã rất nhiều
lần tôi thử sức, nắm thật chặt để nắm tay mình trở thành quả đấm, nhưng không
bao giờ thành, bàn tay tôi không bao giờ có thể nắm chặt lại để thành nắm đấm
cả. Thực trạng là như vậy đấy. Nhưng chắc là có lệnh nghiêm mật, giám thị, quản
giáo và lính coi tù họ đối xử với chúng tôi cực kỳ tàn bạo và hà khắc.
Ðiều
cuối cùng họ phải thi hành nghiêm chỉnh là làm cách nào giết hết được chúng
tôi. Và họ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó: 72 người còn lại độ chừng 11
người. Tôi dám nói con số đó chính xác đến 99%.
Năm
đó là năm 1961. Chúng giết anh em ta ở khu O, khu H, và khu A. Những lò thiêu
xác (khổng lồ hay nhỏ nhoi?) không có khói và không cần chất đốt.
Chúng giết anh em ta
Bằng chiều cao của
núi
Bằng chiều sâu của
đất
Bằng thông cáo của
nha khí tượng.
Cứ
âm O độ là gọi đi xà lim. Xà lim là một cái quan tài bằng đất dầy một mét, cùm
răng cá sấu cắn chân không bao giờ được mở, và bỏ đói cho đến chết. Tiếng gọi
của thần chết đột ngột, bất thần, không lý do và khỏi cần giải thích. Lưu Nam,
chuẩn bị đi. Khánh Sơn chuẩn bị đi. Ðinh Hiền Lương, chuẩn bị đi. Cứ thế lần
lượt ra đi và không ai trở lại.
Những
năm tháng ấy, tôi ngửi thấy cái chết gần gũi quá. Lần đầu tiên trong đời, qua
những năm chinh chiến, qua những cuộc hành quân chiến dịch, tôi đi trong cảnh
máu chảy đầu rơi, chân tay vung vãi, khói lửa mù trời, tiếng đại bác bắn dồn
dập, mặt đất rung chuyển, máy bay rít sát trên đầu, tiếng xích sắt của xe tăng
nghiến sàn sạt sát sườn, cả khi người vệ sĩ của tôi chạy cạnh tôi trong chiến
đấu, bị nguyên một băng tiểu liên quét trúng, ngã trong cánh tay tôi, người đầy
máu thều thào: “Em chết, trung úy ạ...” cả những lúc ấy tôi vẫn chưa cảm thấy
mùi Thần Chết.
Nhưng
ở đây, Cổng Trời Cắn Tỷ, những năm 60, tôi ngửi thấy và cảm thấy nó rất gần.
Lặng lẽ, lặng lẽ nó tiến đến. Không thể nào cản nổi. Một cặp lỗ hổng vô cảm của
đôi mắt, một tiếng gọi tên, vài cái lưỡi lê chĩa vào... Thế là ra đi, thế là
chết.
Một
người ra khỏi cửa, những người còn lại nhìn nhau chờ đợi. Không ai nói với ai
điều gì. Chúng tôi ăn cơm hai bữa một ngày, chín giờ sáng và ba giờ chiều. Ăn
xong ngồi nhìn nhau. Chờ.
Các
đấng bậc tu sĩ rất ít nói, nhất là Ðinh Hiền Lương, dòng tu ép xác Châu Sơn.
Trông Ðinh Hiền Lương tôi nhớ đến Ðức Giám Mục Lê Hữu Từ địa phận Phát Diệm:
Khô, gầy, mặt đầy nếp nhăn khắc khổ. Tuy còn trẻ hơn nhưng tu sĩ Lương cũng gần
giống vậy, chỉ có nước da trắng xanh hơn vì ở xà lim suốt. Tuy ông mặc áo tù,
nhưng trước mắt tôi vẫn cứ hiện lên hình ảnh của Giám Mục Lê Hữu Từ, người ngồi
đó lặng lẽ ôn tồn nhẹ nhàng để đi đến cái chết.
Ở
với ông lâu, nhưng tôi chưa được nghe một câu chuyện nào do ông kể, vì ông chỉ
nói mỗi ngày có vài tiếng thật cần thiết để tồn tại. Còn thì im lặng suốt. Cái
im ắng của ông, tỏa ra chung quanh, đè xuống mọi người.
Còn
tiếp
Kiều
Duy Vĩnh
Monday,
July 16, 2012 4:46:55 PM
Kỳ
2
Trong cái nhà mồ đó, có tôi và Trần Văn Liệu (Cầu Giát Nghệ An)
vốn ăn to nói lớn thế mà lúc ông làm việc thiêng liêng, tôi, nhất là Liệu đến
phải khép nép, và im lặng. Ðúng là một cái nhà mồ. Những người ở trong cái nhà
mồ ấy chết gần hết, chỉ còn lại tôi, và hình như Liệu nữa.
Nhà
tù của chúng tôi không có tên, hoặc là có thì đây: 65HE Bộ Công An, hay công
trường 75A Hà Nội. Những người Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình đi thăm, hỏi công
an địa phương, họ cho cái địa chỉ đó. Có người ngây thơ nghĩ rằng, người thân
của mình được ra làm công trường ở Hà Nội. Họ ùa đi tìm và không bao giờ thấy
cả.
Vậy
nó ở đâu?
Ở
thị xã Hà Giang đi lên, qua đèo Quyết Tiến đến Cổng Trời là gần biên giới Việt
Trung chỗ có thể chưa được phân định rõ ràng, có thể là đất Tàu có thể là đất
ta, một thung lũng không có tên, không có dân, chỉ có tù và người coi tù. Mặt
đất đầy nghệ. Rừng nghệ. Tù lấy lá nghệ mọc trong gầm giường ăn thay rau chống
đói. Không biết mình ở đâu? Không định được tọa độ trên bản đồ. Hàng rào cao
kín mít, con chim không bay qua, con chuột to chui không lọt.
Sang
đến năm 1963, thì tù phá đá ở ngay trong sân trại xây tường bao quanh. Tường
cao như tường Hỏa Lò Hà Nội. Có dây kẽm gai, có điện truyền vào dây kẽm gai.
Nghĩa là cực kỳ kiên cố. Không ai có thể trốn thoát được. Không một ai cả. Chế
độ kiểm soát tù nhân cực kỳ nghiêm mật. Không một mảnh giấy lọt vào. Không một
cái gì có thể gạch hoặc viết được ra chữ tồn tại trong tù. Không báo chí, thư
từ. Tù nhân cấm không được viết thư và nhận thư. Nói khó ai tin: Cuộc chiến
tranh với Mỹ xảy ra năm 1964 ở miền Bắc không một ai trong nhà tù biết cả. Chỉ
thấy có một hiện tượng là những bức tường rào bao quanh được ngụy trang và các
mái nhà được che phủ. Thế thôi. Không ai đoán ra được cái gì. Mãi cho đến năm
1967, tôi được đưa về trại Phú Sơn Thái Nguyên. Trên đường đi từ Hà Giang về
tôi gặp quân Tàu nhập Việt trùng trùng điệp điệp kéo đi. Lúc ấy tôi mới biết là
có chiến tranh.
Cực
giỏi. Những người CS cực giỏi trong quản lý nhà tù, cũng như trong cái trò bưng
tai, bịt mắt quần chúng nhân dân.
Một
bức màn sắt đúng nghĩa.
Ðây
là nhà tù, chứ không phải là nhà thờ. Vậy cấm cầu kinh, cấm lần tràng hạt, cấm
làm dấu thánh. Cấm được ngồi trong đêm; vì không ai nằm mà cầu kinh cả.
Vậy
nên cửa sổ nhà tù lúc nào cũng phải mở, mây bay vào qua cửa sổ mang cái lạnh
chết người vào theo.
Cái
màn cho tù, là một cái quan tài bằng vải. Quy định màn chỉ được cao 40cm để nếu
tù có ngồi ban đêm cầu kinh thì nhô cái đầu lên, lính canh đi tuần có thể kiểm
soát được, quản giáo đi tuần có thể nhìn thấy. Vậy cái màn dài 1m8 và cao 40cm,
thì đúng là một cái quan tài bằng vải sô liệm người sống rồi còn gì.
Cứ
từng bước một, ban giám thị trại thi hành chính sách diệt tôn giáo, cụ thể là
diệt Thiên Chúa Giáo. Vì ở Cổng Trời tôi chưa hề gặp một nhà sư hoặc một Phật
tử nào. Chỉ gặp các linh mục và các tu sĩ Thiên Chúa Giáo mà thôi. Có lẽ ở miền
Bắc Việt Nam thời ấy không còn đạo Phật đúng nghĩa của nó. Trong cái nhà mồ đó,
có một tôi là người là không theo đạo Thiên Chúa, nhưng tôi không phải là Phật
tử. Tôi không thờ Phật, không tin vào Niết Bàn và Thích Ca Mâu Ni tuy tôi rất
thích câu kệ:
Nhạn
liệng từng không
Bóng
in mặt nước
Nhạn
không có lòng ghi dấu
Nước
không có ý lưu hình
Với
tôi, tất cả sư mô ở Bắc kỳ đều là sư hổ mang, học trường Ðại Học Tôn Giáo, tu
theo nghĩa vụ, như nghĩa vụ quân sự, hết ba năm ra khỏi chùa về nhà lấy vợ đẻ
con. Thế cả.
Và
tôi cũng nghĩ sai về các tu sĩ Thiên Chúa Giáo như thế. Nhưng tôi đã thật sự
gặp các vị thánh tử vì đạo. Các vị thánh tử vì đạo bằng xương bằng thịt sống
cạnh tôi nhiều năm, mà tôi vẫn coi thường, nhưng cái chết của họ đã làm tôi
phải nghĩ khác đi. Tôi vốn xa lạ với các tên Phêrô, Phaolồ và Mađờlen. Nhưng
cái tên Ðỗ Bá Lung thì cho đến hết đời tôi không thể nào quên được. Tu sĩ Ðỗ Bá
Lung người lù khù nhưng tử tế, hiền lành, củ mì như một nông dân chân chính của
đồng bằng Bắc bộ. Chả là ông tu ở xứ đạo Ngọc Ðồng, Hưng Yên mà. Ông chưa được
phong linh mục cũng như ông Diệu ở Thụy Phương Hà Nội, ông Chính (Nhẩm) ở Trung
Ðông Thái Bình. Ông chả kể về ông mấy khi.
Trong
cái nhà mồ đó chỉ có thầy Chính là có kể cho tôi nghe đôi điều về quê hương
Thái Thụy của người, và về xứ đạo ven biển Trung Ðông mà thôi. Thêm nữa có nhà
trí thức xứ Nghệ Khánh Sơn với đôi kính cận dầy cộm, ra cái điều học nhiều biết
rộng, thiên kinh vạn quyển, cổ kim, Âu Á, hay nói với tôi về Phúc Âm, về Thánh
Thomas d'Aquin. Tôi nghe ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm. Tôi vốn không có đức tin
và vốn coi thường cái học vấn hẹp hòi của các vị đó thường giới hạn đến hết sân
Nhà Thờ, nên tôi chỉ nghe chơi cho qua ngày đoạn tháng, cho qua cái thời gian
dài dằng dặc khốn nạn ở trong cái nhà mồ mà thôi.
(Còn
tiếp)
Kiều
Duy Vĩnh
Tuesday,
July 17, 2012 4:27:43 PM
Kỳ
3
Tôi ít lưu tâm đến vấn đề tôn giáo. Cũng như tu sĩ Ðinh Hiền
Lương, tu sĩ Lung cứ lững thững đi lại, chậm rãi, lặng lẽ tới lui, ông có nhiều
lời hơn bậc tu ép xác dòng Châu Sơn một chút, nghĩa là đôi lúc ông có nói với
tôi về Phố Nối và con đường 39 về xứ Ngọc Ðồng nơi ông tu.
Vùng
của ông, tôi có hành quân qua nên cũng có đôi chút kỷ niệm, vả lại trời cũng
phú cho tôi một trí nhớ tốt, cho đến tận bây giờ, sau gần 50 năm trôi qua, mà
tôi vẫn nhớ rõ tên; tên chữ cũng như tên nôm của các làng vùng đó như: Duyên
Trang Duyên tục là Tuộc, Lác; Hải An là Hối; Phù Lưu là Ðọ (ngã ba Ðọ); Ðống
Năm là Ðông Các; Thượng Tầm là Tìm; Cổ Hội là Gọ (cầu Gọ); Cầu Sắt là Nha
Xuyên... Cho nên tôi và ông thỉnh thoảng có ôn lại các địa danh Lực Ðiền, Trương
Xá, Kim Ðộng, dốc Lã, rồi đến nhãn Hưng Yên, thang cuốn Phố Hiến, dưa hấu Ðình
Cao, Phù Cừ và cả về việc chỉ huy sở của khu chiến chiếm Chủng viện Hưng Yên.
Về
ông tôi biết hời hợt thế thôi. Nhưng có một điều ông như thế mà bị đầy lên đây
vào khu 2A này thì chắc ở trong còn tiềm ẩn một điều gì sâu sắc lắm, cao đạo
lắm, quyết liệt lắm mà tôi chưa hiểu nổi đấy thôi.
Như
trên tôi đã nói: Những người ở trong nhà mồ cứ lần lượt bị gọi đi. Luôn luôn
lặng lẽ và đột ngột. Nhưng thời gian xảy ra câu chuyện này hơi có sự thay đổi:
Người
giám thị cũ của trại giam tên là Nhân chuyển về làm cục phó Cục Quản Lý Trại
Giam vì thành tích xuất sắc của mình, thay vào đó là giám thị Nguyễn Quang
Sáng, trẻ hơn, người Nam Hà. Nói qua một chút về giám thị Nhân. Trước khi lên
đây, giám thị Nhân coi trại Yên Bái, trại này cũng vào hạn khá đặc biệt, khi
chưa có Cổng Trời. Năm 1954, trại này nhốt tướng De Castries người chỉ huy Ðiện
Biên Phủ. Sau đó là những địa chủ cường hào đại gian đại ác có nợ máu, những
tên phản động nguy hiểm từ trong Nam ra, từ khu Tư lên, tập trung ở đó, rồi sau
đó chọn lọc đem lên Cổng Trời.
Giám
thị Nhân người Nghệ An, trông gầy (tôi có được gọi lên gặp hai lần) và khô, mặt
tai tái lạnh lùng, đúng típ người coi trại giam, rét cắt ruột vẫn đi đôi dép
lốp cao su, mà ngón chân út của bàn chân cáu ghét nứt nẻ bao giờ cũng thò ra
ngoài quai kẹp lấy nó để đi cho chắc. Rất đúng tác phong quần chúng xuất thân
từ nông dân lao động:
Những
bàn chân từ than bụi lầy bùn.
Ðã
bước dưới mặt trời cách mạng...
Những
bàn chân đã vùng dậy đập đầu
Lũ
chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp
(Tố
Hữu)
Ðúng
thế, những bàn chân ấy đã giẫm lên xác không biết bao nhiêu người ở các trại
giam khác và bây giờ đây lại tiếp tục làm nhiệm vụ của nó: Giẫm lên xác những
kẻ ở nhà mồ Cổng Trời này.
Có
điều giám thị Nhân giẫm lên xác một cách nhẹ nhàng và im ắng. Còn giám thị mới
Nguyễn Quang Sáng thì giẫm lên xác ầm ĩ hơn, trang trọng hơn, bài bản hơn. Âu
cũng là cách làm khác nhau của họ. Ðổi mới mà.
Hôm
ấy, rét làm đông nước. Ở mái nhà nước đóng thành băng. Sáng ra, nhìn qua cửa sổ
ra sân trại, khói bốc nghi ngút trên mặt đất. Như mọi ngày, chúng tôi tiến hành
mọi việc như thường lệ. Với chúng tôi: Stalin chết, Malenkốp chết, John Kennedy
bị bắn, Ngô Ðình Diệm chết, Kroutchov bị hạ bệ, chả có gì quan trọng cả.
Giám
thị Nhân đã từng tuyên bố vào mặt chúng tôi:
“Cái sống chết của
các anh ở trong tay chúng tôi. Ðừng có mơ tưởng hão huyền gì. Cho dù có động
trời, động đất xảy ra, thì trước khi chuyện đó đến với các anh, nó phải tới cái
trại đặc biệt này. Nghe cho rõ mà nhớ lấy. Trước khi mọi điều viễn vông, viễn
tưởng mà các anh mong đợi xảy ra, thì các anh đã không còn ở cõi đời này nữa,
các anh đã là những cái xác chết rồi.”
Chúng
tôi nghe và cũng hiểu đúng như vậy. Cho nên, động đất, chiến tranh ai chết.
Mặc. Chúng tôi cứ lặng lẽ, lặng lẽ tồn tại. Chỉ tồn tại thôi chứ không phải là
sống. Làm một sinh vật trên trái đất này ai chả tham sống sợ chết. Tôi phải nói
lại ngay, ấy là nói với riêng tôi thôi, chứ còn các vị thánh tử vì đạo thì điều
ấy hình như không đúng đâu.
Cố
Hoàng đôi lúc cao giọng:
Ở
nơi lưu đầy
Dù
gươm chém hay đầu rơi
Lòng
vàng đá không hề phai
Dù
gươm chém hay đầu rơi...
(Cha
Vinh)
Các
đấng bậc ấy chả sợ, chả phàn nàn điều gì. Chả bù với tôi, luôn miệng kêu: “Chao
ôi đói quá! Chao ôi rét quá! Chao ôi khổ quá! Chao ôi...” Ðược cái tôi chỉ kêu
lên thế thôi, cho nó thoát ra ngoài một chút thế rồi thôi, chả mong gì uất khí
làm cho đầu trắng xóa như thái tử Ðan ở nước Tàu xưa kia, vì tôi cũng đã biết:
Gémir,
crier, pleuer
est
également lache
Và
tôi nghiến răng lại để không bao giờ làm kẻ hèn nhát. Dù không được mười phần
như các đấng bậc quanh tôi, tôi cũng cố đạt mức trung bình.
Còn
tiếp
Kiều Duy
Vĩnh
Wednesday,
July 18, 2012 2:35:05 PM
Kỳ
4
Buổi sáng hôm ấy, chín giờ, mọi người chúng tôi ăn cơm xong,
ngồi chơi, nhìn nhau, thì cửa mở. Một tiểu đội lính lưỡi lê tuốt trần súng ống
chỉnh tề. Ðủ mặt bá quan của Khu A2. Quản giáo trực, giáo dục, phó giám thị phụ
trách khu.
Tất
cả đều đội mũ bình thiên, lệ phục chỉnh chu. Cuối cùng, giám thị mới xuất hiện.
Còn trẻ, nhanh nhẹn mặt mũi sáng sủa, ăn nói lưu loát, sang sảng, dứt khoát, có
âm sắc Nam Hà (có điều cho mãi đến tận bây giờ tôi vẫn chưa hiểu nỗi, là tại
sao trong chuỗi ngôn từ chính quy, nhân danh pháp luật mà giám thị mới lại xen
vào đó một số từ mà người ta chỉ dùng để nói láo với nhau mà thôi).
Bài
nói như sau:
“Hôm
nay, tôi Nguyễn Quang Sáng. Chánh giám thị mới của trại, thông báo để các anh
rõ.
Trại
Cổng Trời, Công Trường 25A Hà Nội này là một trại đặc biệt. Trại đã sàng lọc
cẩn thận lũ các anh, bọn đầu trâu trán khỉ, bọn phản động chống phá cách mạng
một cách điên cuồng, ở các trại dưới các anh không chịu cải tạo, lại còn ra sức
truyền đạo và kích động người khác. Chúng tôi đây, chúng tôi cũng được chọn
lọc, những phần tử ưu tú nhất, dầy dạn nhất, kinh nghiệm nhất để lên đây trừng
trị, trấn áp lũ các anh. Tôi thay mặt cho ban giám thị báo cho các anh biết:
Ban
giám thị trại Cổng Trời trực tiếp được Bộ Chính Trị và Ủy Ban Thường Vụ Quốc
Hội trao cho quyền hành đặc biệt: Trừng trị thẳng tay những kẻ nào còn dám
chống lại đảng và nhà nước. Cụ thể, tôi nhấn mạnh, là tôi sẽ cho đi ngủ với
giun (nguyên văn) những kẻ nào không chịu cải tạo và cố tình chống đối lại.
Hôm
nay tôi xuống đây để hỏi: Anh Ðỗ Bá Lung.”
Im
lặng.
“Tôi
hỏi: anh Ðỗ Bá Lung có nghe thấy không?”
Có
tiếng đáp nhỏ nhẹ: “Có tôi.”
“Ðứng
dậy. Tôi bảo anh đứng dậy.”
Vì
buồng giam chật, không có chỗ cho chúng tôi đứng, nên chúng tôi đều ngồi xổm
hoặc xếp chân vòng tròn trên giường chỗ gần cửa ra vào. Chỉ có giám thị, quản
giáo là có chỗ đứng ngay cửa mà thôi. Tu sĩ Ðỗ Bá Lung từ từ đứng dậy.
Trời
rét âm bốn độ, nên trong lúc ngồi nghe chúng tôi ai nấy đều quàng chăn cho khỏi
rét.
“Bỏ
chăn ra.”
Tu
sĩ Lung tuột chăn khỏi vai cho rơi xuống chân mình.
“Anh Ðỗ Bá Lung, hôm
nay, sau khi đọc hồ sơ của anh, cùng các nhận xét của các ban giám thị các trại
dưới, và được các ông quản giáo báo cáo lại, thấy rằng: Anh là một tên phản
cách mạng cực kỳ nguy hiểm, đã đội lốt thầy tu mê hoặc các giáo dân ở các xứ
đạo, kích động họ để họ chống lại đảng và chính phủ.
Ðến khi bị bắt vào
tù, ở các trại dưới cũng như ở đây, anh vô cùng ngoan cố khăng khăng không chịu
cải tạo, từ chối mọi sự giáo dục của ban giám thị và các ông quản giáo. Tôi nói
lại một lần nữa cho anh Ðỗ Bá Lung và các anh nghe cho rõ. Kẻ nào còn dám chống
lại tôi sẽ cho đi ngủ với giun.
Anh Lung, trước đây
lúc nào anh cũng vỗ ngực tuyên bố trước giáo dân và các ban giám thị ở các trại
dưới là anh thề không đội trời chung với Cộng sản. [Chính xác thì Tu sĩ Lung
nói: Tôi không bao giờ có thể sống chung với Cộng Sản vô thần được]. Bây giờ
trước mặt tôi anh có còn dám trắng trợn thách thức như thế nữa không?”
Im
lặng trên toàn bộ nhà mồ. Tôi ngồi im một xó, khép kín cái chăn, sụp cái mũ bịt
tai lại, tránh mọi cặp mắt.
Giám
thị Sáng cao giọng hất hàm:
“Tôi
hỏi anh Lung, anh trả lời cho tôi biết. Thế nào?”
Những
phút giây này Thần Chết đã có mặt. Người ta thường viết như thế này về những
người Cộng Sản trước khi chết: Vào những phút giây này người Cộng Sản kiên
cường bao giờ cũng đứng dậy hô to: “Ðảng Cộng Sản muôn năm. Hồ Chủ Tịch muôn
năm.” Phút giây thiêng anh đứng dậy ba lần và hô ba lần hô dõng dạc như thế.
Tôi
chờ. Tôi chờ. Và thấy tu sĩ Ðỗ Bá Lung ngẩng đầu:
“Tôi có nói như thế
và bây giờ tôi vẫn nói như thế.”
Tiếng
quát bật ra giận dữ:
“Lôi
nó đi.”
Không
để ai phải lôi kéo cả.
Tu
sĩ Lung từ từ bước ra khỏi giường. Ði ra cửa.
Hàng
lưỡi lê giãn ra. Quản giáo, giám thị giãn ra để cho tu sĩ đi. Ðến gần cửa tu sĩ
quay lại, móc túi lấy gói thuốc lào, mấy đồng bạc “âm phủ” trao lại cho người
ngồi gần. Vì tôi nằm cạnh tu sĩ, nên tu sĩ quay lại phía tôi: “Anh Vĩnh, tôi
còn mấy viên thuốc cảm, và cái gối để ở đầu giường, lấy mà dùng.”
Và
hướng vào tất cả mọi người trong nhà mồ, tu sĩ nói nhỏ nhẹ:
“Thôi
chào các bác, các anh ở lại. Tôi đi.”
Và
tu sĩ đi. Cửa sập lại.
Chúng
tôi im lặng ngồi nhìn nhau không ai nói với ai một lời. Thần Chết đến và đã đi.
Lần này ầm ĩ hơn, có nghi lệ hơn, có bài bản hơn những lần trước.
*
Gần
ba tháng sau, Nguyễn Hữu Ðang, “tên cầm đầu bọn Nhân Văn Giai Phẩm” đến gần cửa
sổ khu tôi ở. Anh là người độc nhất ở đây được đưa cơm vào xà lim, được đi lại
tự do trong bốn bức tường, anh là người được ăn no, đủ muối mắm, thậm chí được
mua cả thịt trâu và được hái hoa rừng cài vào cửa sổ. Có lần anh cầm một bó hoa
nghệ và bảo tôi: Này Vĩnh, cậu ngửi mà xem có đúng mùi nước hoa Bain de
Champagne không.
Tôi
vốn không ưa cái mùi ung ủng của thứ nước hoa thượng hảo hạng đó. Nhưng anh
Nguyễn Hữu Ðang thì anh rất thích cái mùi nước hoa Bain de Champagne đó. Lại có
lần qua cửa sổ vào buổi sáng sớm, anh dúi cho tôi một cái bánh sắn to có nhân
thịt trâu.
Chao
ôi là chao ôi.
Thỉnh
thoảng lúc vắng quản giáo và lính canh anh đứng cạnh cửa sổ nói với tôi dăm ba
câu chuyện tào lao. Anh được thả lỏng, được ưu đãi có lẽ do cái người cắp cái
cặp đen hôm đưa đoàn tù lên. Anh bảo với tôi rằng ông ta tên là Vệ, hình như
làm cục phó Cục Quản Lý trại giam. Hồi xưa trước năm 1945, khi anh làm tổng thư
ký Hội Truyền Bá Quốc Ngữ với cụ Nguyễn Văn Tố, anh có làm ơn cho ông ta một
điều gì đó. Ðến giờ ông ta tử tế đáp lệ lại. Chắc là thế.
Anh
luôn bảo, anh không có tội gì cả. Nếu có - theo anh - thì đó chỉ là một sự hiểu
lầm về thời gian và không gian trong triết học mà thôi. Anh nói ấm ớ lững lờ và
khó hiểu như vậy.
Ba
tháng sau, lúc đưa cơm xà lim xong anh đáo qua cửa sổ tôi và bảo:
“Này,
cái lão Lung ấy mà. Vẫn chưa chết. Sống dai thế. Không có chăn, không có quần
áo ấm để chống rét cơ thể mọc đầy lông cậu ạ. Chỉ còn đôi mắt là vẫn sáng vẫn
sống thôi.”
Còn
tiếp
Kiều Duy Vĩnh
Thursday,
July 19, 2012 12:49:25 PM
Kỳ
5
Nhưng mà sống mãi làm sao cho được nỗi với chế độ hà khắc giết
người đó. Tu sĩ Lung phải chết. Người ta đóng các cửa sổ lại để không ai nhìn
thấy chiếc chiếu gói xác khênh đi qua.
Mỗi
lần chôn, có hai tù hình sự ở trại ngoài vào, đem theo một chiếc chiếu, đòn
khiêng và dây thừng. Thường hay chôn vào buổi chiều tà. Chôn xong họ được bồi dưỡng
một cân đường, hai cân gạo nếp. Cha Quế và Cha Vinh chết, thì đâu như phần chôn
còn được thêm một cân lòng trâu.
Thế
là với chúng tôi, Tu sĩ Ðỗ Bá Lung xứ Ngọc Ðông Hưng Yên không bao giờ về nữa.
Người đã chết, và coi như mọi chuyện đã hết. Nhưng câu chuyện lại chưa chấm dứt
ở đây ở lúc đem Tu sĩ Lung đi chôn.
Ở
đoạn trên, chúng ta đã biết là Tu sĩ Ðỗ Bá Lung đã vào Hầm Chết ba tháng mà vẫn
chưa chết. Chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng rất sốt ruột, luôn luôn hỏi anh
Nguyễn Hữu Ðang, người cầm đầu Nhân Văn Giai Phẩm, người độc nhất được đưa cơm
vào xà lim:
“Thế
nào, nó chết chưa? Cái thằng Lung ấy.”
“Thưa
ông, anh ấy chưa chết.”
Nguyễn
Hữu Ðang có cái đáng quý là anh không gọi ai ở trong tù bằng thằng cả. Trong
khi bọn trật tự viên hình sự luôn luôn nói theo giọng quan thầy, ông chủ chúng
đều gọi tù nhân bằng thằng này thằng nọ.
Tôi
có một anh bạn rất thân tên là Sâm. Khi hỏi cung tôi, cán bộ công an hỏi:
“Anh
thấy thằng Sâm nó thế nào?”
“Thưa
ông, tôi không quen thằng Sâm nào cả?”
“Anh
láo, anh chối hả? Thằng Sâm mà anh không quen thì anh còn quen ai nữa?”
“Thưa
ông, nếu ông nói về anh Ðỗ Văn Sâm học cùng với tôi ở trường Chu Văn An thì tôi
quen rất thân. Nhưng xin ông nhớ cho là anh ấy chưa bị bắt, ông không nên gọi
thằng này thằng nọ như thế.”
Tôi
chỉ dám trả lời lại có thế thôi, nhưng còn anh bạn Phan Hữu Văn, thì anh ấy trả
lời hay hơn tôi nhiều:
“Thưa
ông, tôi tưởng ông nói tới thằng Vĩnh lưu manh, ma cà bông ở cùng trại 13 với
tôi thì thật tình tôi không bao giờ biết tới quân ăn cắp ấy cả. Nhưng tôi có
quen ông Kiều Duy Vĩnh, học sinh trường Chu Văn An cũ, nguyên đại úy tiểu khu
trưởng Ninh Giang. Chúng tôi không dùng những từ thằng này thằng nọ mày tao mi
tớ bao giờ. Chỉ có bọn vô học, vô văn hóa, vô giáo dục thì mới dùng những từ đó
mà thôi.”
Tên
công an tím mặt lại, đuổi về trại đi cùm.
Lại
nói về Tu sĩ Ðỗ Bá Lung, hết tháng thứ ba ông chưa chết, nhưng sang đến tháng
thứ tư vào dịp gần đến lễ Thiên Chúa Giáng Sinh ở Cổng Trời đôi lúc không độ,
nước đóng băng thì tu sĩ Lung chết.
Nguyễn
Hữu Ðang vội vã bá cáo với trực trại là Tu sĩ Lung đã chết.
Ngay
buổi chiều hôm đó, mọi cửa sổ nhà giam đều bị đóng kín lại, có hai người tù
hình sự ở trại ngoài đem đòn, dây thừng và một chiếc chiếu vào khênh đi chôn.
Họ chôn xong, về lĩnh mỗi người một cân đường và một cân gạo nếp. Ðâu như những
lần chôn cất cha Vinh cha Quế họ được thêm mỗi người một ký lòng trâu.
Ðối
với chúng tôi thì là Tu sĩ Ðỗ Bá Lung đã chết, đã đem chôn. Người chết hết
chuyện. Thế nhưng trường hợp của Tu sĩ Lung lại không hết chuyện. Thế mới
phiền.
Cũng
chừng độ ba tháng sau, một ngày nắng vàng rực rỡ, trời ấm áp dễ chịu, người ta
thấy, lù lù một tu sĩ Ðỗ Bá Lung chống gậy xuất hiện ở trại Cổng Trời.
Thế
là náo loạn cả lên. Từ Ban Giám thị trại, đến lính coi tù, đến tù nhân đều tới
lui, bàn ra tán vào, rì rầm nhớn nhác. Cửa sổ các trại lại đóng như khi ông
chết mang đi chôn. Họ đưa ông vào ở tạm một cái buồng con chỗ cán bộ giáo dục
“lục vấn” người tù. Chứ chả lẽ lại đưa ông vào Hầm Chết lần nữa!
Hóa
ra là hồi ba tháng trước ông chưa chết hẳn, hoặc là ông đã chết mà một phép lạ
đã làm ông sống lại. Câu chuyện xảy ra như sau:
Sắp
đến chỗ chôn thì trời đổ mưa to, hai người tù hình sự tránh mưa, để ông nằm đó
chạy vào trú mưa ở nhà một người Mèo, họ vào đấy uống rượu chờ tạnh mưa. Mưa
hồi lâu, và rượu hơi ngon nên trời chập choạng tối họ mới lần xuống, thì không
thấy bó chiếu đâu nữa.
Họ
nghĩ có lẽ thú dữ, hoặc chó sói đã tha cái xác ấy đi rồi. Có sao đâu, khỏi phải
chôn. Họ về và cũng chả có ai hỏi là họ chôn xong chưa? Mọi lần vẫn thế. Mặc
nhiên coi như đã chôn xong.
Hóa
ra là khi họ đang uống rượu thì mưa to hơn lại có sấm chớp nữa làm Tu sĩ Ðỗ Bá
Lung tỉnh lại, dây buộc thì lỏng lẻo, ông chui ra khỏi cái chiếu, lấy cái chiếu
che mưa lần vào cái chuồng trâu gần đó. Hơi ấm của trâu, của phân trâu làm ông
hồi tỉnh lại và sáng hôm sau, chủ nhà người Mèo nấu cháo ngô cho ông ăn và nuôi
ông. Thế là ông sống lại.
Ông
sống lại một cách khỏe mạnh. Người Mèo cho ông ăn no so với sáu ký gạo cộng với
sắn trong một tháng thì cháo ngô đã làm ông hồi phục nhanh chóng.
Nhưng
làm sao mà sống mãi ở nhà họ được? Mà trốn trại thì trốn về đâu? Và làm sao mà
trốn thoát được. Giấy tờ không, tiền không, với 100km đường rừng, 300km đường
bộ, ông đi làm sao được. Chỉ có một con đường độc nhất xuống núi thì bị kiểm
soát thật ngặt nghèo, ông làm sao đi thoát. Vậy chi bằng quay trở lại trại Cổng
Trời là hơn cả.
Thế
là ông quay về trại sáng hôm đó.
Nhưng
phiền là ban giám thị trại đã báo cáo về bộ cái thành tích tiêu diệt tên phản
động đội lốt thầy tu Ðỗ Bá Lung rồi, và trên bộ đã gạch xóa tên Lung trong danh
sách tù ở Cổng Trời rồi. Làm sao bây giờ? Phải có phương án nào chứ.
Hai
hôm sau, có một xe com-măng-ca của bộ lên trại Cổng Trời. Ông Ðỗ Bá Lung lên
chiếc xe đó. Ông đi đâu? Và sẽ ra sao? Cho đến giờ chúng tôi cũng không biết gì
hơn về Tu sĩ Ðỗ Bá Lung, người đã chết và đã sống lại đó.
Còn tiếp
No comments:
Post a Comment