Kiều Duy Vĩnh
Wednesday,
July 25, 2012 12:48:02 PM
Kỳ
11
Tôi bảo: “Hai phần ba là xương thì có.”
Anh cãi: “Cậu biết đếch gì, này lưỡi này tai, này mồm này má,
này óc; xương không bao nhiêu đâu.”
Và
anh nói đúng thật.
Anh
nói xong nuốt nước bọt làm tôi thèm lây.
Những
tháng rét, chúng tôi ăn sắn độn cơm và ăn lá bắp cải già nấu muối. Nói là 12 kg
sắn gạo, nhưng có lẽ chỉ còn độ 9, 10 kg thôi. Lĩnh gạo ở mậu dịch về làm gì có
cân đủ, về để ở kho chuột bọ lại hao hụt đi, phát đến nhà bếp còn độ 10 kg, nhà
bếp lại giữ lại cháy để nuôi lợn nữa.
Lá
bắp cải già đen, nấu trong chảo, cho muối vào nước đen sì có vị nồng, người
ngoài nhìn không dám ăn nhưng chúng tôi ăn ngon lắm. Giá nhà bếp họ cho đủ mặn
thì tốt quá. Nhưng muối cũng bị hạn chế, có li-mít. Chúng tôi thường đổ một bò
nước vào canh để cho nó được nhiều hơn. Và húp hết canh rồi mới ăn đến cơm và
những lúc đó tôi cứ nghĩ lẩn thẩn, tại sao ở ngoài đời lại phải ăn cơm với thức
ăn nhỉ. Cơm không cũng đã ngon lắm rồi hà tất gì còn phải thức ăn nữa.
Cơm
ăn rất ít khi còn nóng. Vì từ nhà bếp lên đến buồng giam phải mất thời gian
chừng hai tiếng đồng hồ. Này nhé: cơm ở chảo, xúc ra thùng. Ra thùng rồi, lại
phải cân. Cân xong gánh để ở sân trại. Hôm nào mưa thì để ở hè. Trời rét cơm
canh nguội rất nhanh. Quản giáo trực mở cửa từng khu một cho ra lấy cơm. Khu C
trước, rồi Khu B, rồi mới đến Khu A. Ðến Khu A thì cơm đã nguội lắm rồi. Ðem
vào buồng lại phải dằm nát ra để chia cho đều, cho công bằng. Chia bằng cân
tiểu ly tự tạo từng xuất một. Thế là nguội lạnh hết cả. Ăn cơm xong coi như
không ăn. Vì ăn vào lại thấy rét thêm. Hình như cơ thể phải tỏa ra năng lượng
để hâm nóng cơm canh cho bằng với nhiệt độ ở trong người.
Quàng
chăn vào mà ăn, ăn xong vẫn thấy rét. Cái đói và cái rét đi song hành với nhau.
Cơ hàn thiết thân mà. Và những lúc đói rét đó, chúng tôi mong Tết đến lắm. Dù
thế nào đi nữa, Tết ở các trại dưới bao giờ cũng có bánh chưng. còn được phát
cả kẹo bánh nữa. Dù ít nhưng cũng gọi là có. Và vì vậy mà tôi mong Tết đến lắm.
Tôi thèm một cái kẹo bột dỗ trẻ con quá đi mất thôi.
Tết
đến may ra được một bữa no. Lại có thêm tí đường. Những ngày lễ 1-5, 2-9, tù có
được ăn thịt trâu, bò, hoặc lợn. Tù hình sự gọi thịt là “mều.” Ðược dăm ba
miếng thịt thêm mấy miếng lòng, thế là đời tươi rồi.
Những
ngày ấy bụng tôi nó hơi lưng lửng. Chỉ riêng có Tết, cơm + canh + thịt + bánh
chưng là tôi được gần no. Tôi luôn nghĩ đến câu: “Ðói ngày giỗ cha, no ba ngày
Tết.” Nên cái bánh chưng phát chiều 30 Tết cùng tất cả kẹo bánh tôi dồn cả vào
sáng mồng một. Ăn hết cơm canh thịt thà xong tôi bóc cái bánh chưng ra ăn tiếp.
Hết cái bánh chưng tôi tráng miệng nốt chỗ kẹo bánh. Ăn liền một lúc. Vươn vai
đứng dậy. Thế là hết Tết.
Ngay
ở các trại dưới, Tết chỉ hai ngày, chỉ có hai chứ không có ba. Vì sáng mồng ba
Tết đã phải đi làm rồi. Với tù, Tết bắt đầu từ chiều 30. Bữa chiều 30 Tết bao
giờ cũng có lòng trâu lòng lợn, thêm tí thịt thủ, tý mỡ vào canh lá bắp cải
già. Chả là sáng 30 Tết, trại làm thịt lợn, thịt trâu để cho Ban Giám Thị, Ban
Chỉ Huy bộ đội gói bánh chưng.
Bữa
sáng mồng một tù được ăn thịt hẳn hoi. Chiều lại ăn cơm rau như thường. Sáng
ngày mồng hai lại được ăn một bữa thịt nữa. Chiều mồng hai lại ăn rau có thêm
nước luộc thịt. Thế thôi. Thường thì tù vẫn còn đói.
Ðấy
là ở các trại dưới. Trại Ngọc, Yên Bái; trại Da Thịnh, Tuyên Quang; Phong
Quang, Lao Kay; Tân Lập, Phú Thọ; Tân Sơn, Lạng Sơn; và Vĩnh Quang, Vĩnh
Phúc...
Còn
ở Cổng Trời năm đó, năm Nhâm Dần 1961...
Chiều
30 Tết. Rét cắt ruột, cắt thịt, cắt da. Bầu trời xám xịt ảm đạm đầy mây. Trại
tù im ắng quá. Tôi đứng ở cửa sổ, nhìn qua song cửa gỗ lim, thấy anh Nguyễn Hữu
Ðang đứng ở sân trại nói với phó giám thị trại quỷ xứ người Ðức Thọ, Hà Tĩnh.
Tôi lắng nghe lỏm bõm.
“Thưa ông, theo tục
lệ cổ truyền của Việt Nam thì đến chiều 30 Tết, gia đình nào cũng làm mâm cơm
cúng gia tiên và ở các trại dưới tù cũng đều được cải thiện ăn thêm... Mong
rằng ông cũng cho anh em chúng tôi...”
Có
tiếng quát cao giọng ngắt đứt lời của anh Nguyễn Hữu Ðang.
“Không có gì cho các
anh hết cả. Biết chưa. Cấm không được đòi hỏi, yêu sách lôi thôi gì... Cho thế
nào ăn thế...”
Rồi
quỷ sứ quay ngoắt người bước ra cổng trại và rồi chiều 30 Tết năm ấy vẫn lá bắp
cải già nấu muối đen sì.
Không
có gì hơn.
Hai
ngày Tết trôi qua. Ðến sáng ngày mồng ba, Cố Hoàng làm một bài thơ vịnh cái Tết
đó đọc cho tôi nghe. Thơ rằng:
Tết đến Nhâm Dần
khốn nạn thay
Chiều 30 Tết vẫn ăn
chay
Bánh chưng mong đợi
thời không có
Thịt lợn vừa tròn ba
đốt tay
Buổi sáng mỗi người
hai cái kẹo
Bữa trưa dăm miếng
thịt trâu gầy
Anh em ngao ngán
nhìn cơm sắn
Khốn nạn thân tôi
đến thế này...
Tôi
vốn ghét những người làm thơ không hay. Khốn nỗi, những người làm thơ không hay
lại rất hay làm thơ. Và đã làm thơ thì thế nào cũng níu kéo một người nào đó để
đọc cho nghe. Tôi khổ sở vì phải nghe những bài thơ đó. Hồi nhỏ, tôi thấy thầy
tôi ngồi cùng các vị túc nho hay chữ, lúc trà dư tửu hậu đùa cợt có nói câu:
“Ai
mà nói dối, thì ăn câu đối cụ Nghè Bản” và các cụ cười ầm lên.
Tôi
không rõ cụ Nghè Bản là ai và ở đâu. Nhưng suy luận ra chắc là câu đối của cụ
thối lắm nên mới có câu nói cửa miệng đó.
Nó
cũng như câu nói của Thánh Quát: “Câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An.” Ấy đến
bây giờ đây, ở đâu cũng thấy làm thơ, thơ hay đến không ngửi được cũng đăng
báo, xuất bản thành tập làm khổ người xem, người đọc.
Hình
như ở đất nước này, ai ai cũng thích làm thơ. Ngay thằng tôi đây, một người
Việt Nam chân chính, tôi cũng mắc cái tật cũng làm thơ như ai. Nhưng vì tôi là
con nhà binh, nên làm thơ chỉ đạt đến trình độ của mấy ông quan võ ngày xưa mà
thôi. Nghĩa là:
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đấy
Còn tiếp
Kiều Duy Vĩnh
Thursday, July 26, 2012 1:35:59 PM
Kỳ
12
Hoặc:
Chẳng phải voi cũng chẳng phải trâu
Ấy là con chó cắn gâu gâu
Rồi
tôi đọc cho cố Hoàng nghe. Toàn bộ thơ của tôi cố Hoàng sổ toẹt hết. Nói chẳng
ra làm sao cả. Cố Hoàng bảo chỉ có mỗi một câu nghe được thôi. Ðó là câu:
Ngũ
Tử Tư, Ngũ Tử Tư,
Tấm
thân chìm nổi đến bao giờ
Cố
Hoàng rất hay làm thơ và cũng ngâm lại cho tôi nghe. Giọng cố ngâm rất hay, cố
lấy làm thích thú lắm. Ra cái điều tâm đắc. Nhưng cố Hoàng hát còn hay hơn nữa.
Cố hay hát bài ca tụng các Thánh tử vì đạo của Cha Vinh (địa phận Hà Nội).
Nếu
không có mẹ, ở nơi lưu đày...
Xin
Mẹ hãy nghe lời con kêu van, khẩn cầu đau đớn
Và...
Dù
gươm chém hay đầu rơi
Lòng
vàng đá không hề phai...
Làm
cho tôi thuộc đến tận bây giờ.
Và
cũng như bài thơ Tết Nhâm Dần ở trên, cố cứ ngâm nga mãi, tuy rằng bài thơ
không hay nhưng nó lột tả được toàn bộ sự thật đau xót khốn khổ của cái Tết tù
năm đó. Vì không có bài thứ hai, nên tôi xin được phép chép lại, các vị cũng
lượng thứ cho. Vì cái Tết của chúng tôi đúng như vậy đó. Chỉ được ăn một bữa,
bữa trưa ngày mồng một Tết thôi. Mà đói vàng mắt ra, vì mãi đến tận một giờ
chiều mới được ăn.
Mọi
ngày chúng tôi ăn khoảng từ 8 đến 9 giờ sáng. Riêng ngày mồng Một Tết, các quan
còn bận ăn Tết nên không xuống mở cửa sớm. Mãi đến tận 10 giờ sáng mới xông đất
mở cửa nhà bếp. Thế có nghĩa là ba tiếng đồng hồ sau, một giờ chiều chúng tôi
mới được ăn cơm sáng.
Mười
giờ sáng, mở cửa, phát cho mỗi người hai cái kẹo. Lại đóng ngay cửa lại. Sau
khi tù khênh cứt đái ra ngoài đổ chúng tôi lại vào buồng ngồi chờ cơm. Trong
khi chờ đợi thì thưởng thức hai cái kẹo ăn dỗ trẻ con và chịu khó nhịn đói đến
một giờ chiều. Ðúng như lời trong thơ tả:
“Bữa
trưa dăm miếng thịt trâu gầy”
Và
ba miếng thịt lớn bằng ba đốt ngón tay, và, của đáng tội, còn được thêm mấy
miếng lòng nữa mà cố Hoàng không chép nhét vào trong bài Thơ Ðường đó được.
Bài
thơ không được hoàn chỉnh lắm và có thể thất niêm thất luật. Nhưng nó đúng,
đúng với sự thật đau xót Tết vẫn ăn cơm độn sắn, đắng ngắt. Nhưng cái kết không
có hậu. Khốn nạn thân tôi đến thế này thì thật là mệt quá.
Tôi,
tôi vẫn muốn có một happy end, vẫn muốn có Tiên Ðiền Nguyễn Du với nàng Kiều ở
sông Tiền Ðường lên cho tái hồi Kim Trọng, tôi vẫn muốn sống và trở về tự do,
về nhà cùng mẹ và vợ con tôi, nên tôi xin phép cố Hoàng cho tôi sửa lại câu
cuối. Cố bảo thì sửa đi. Tôi sửa thành:
“Ước
đến sang năm khác thế này.”
Cố
gật đầu bảo: “Thôi cũng được.”
Thế
là bài thơ đó như sau:
Tết
đến Nhâm Dần khốn nạn thay
Chiều
30 Tết vẫn ăn chay
Bánh
chưng mong đợi thời không có
Thịt
lợn vừa tròn ba đốt tay
Buổi
sáng mỗi người hai cái kẹo
Bữa
trưa dăm miếng thịt trâu gầy
Anh
em ngao ngán nhìn cơm sắn
Ước
đến sang năm khác thế này.
Có
thể là vì câu thơ cuối, mà cố Hoàng thì nằm lại chôn thân nơi đó, còn tôi may
mắn trở về để viết lại câu chuyện này hôm nay chăng.
Xin
hết.
1.
Ðức Thánh tử vì đạo thứ hai mà tôi được gặp
Ðức
thánh thứ nhất là tu sĩ Ðỗ Bá Lung từ Ngọc Ðông, Hưng Yên đã chết ở Cổng Trời
còn đức thánh thứ hai này thì bị bức hại tàn ác dã man ở trại Phong Quang, Lao
Kay.
Ngài
tên là Lâm Ðình Túy người Nam Hà, giáo dân địa phận Bùi Chu. Ðức thánh này
quyết liệt hơn, dứt khoát hơn, những điều mà Ngài Lâm Ðình Túy làm thì chỉ có
một không có hai, trước không có và sau này cũng không thể có.
Trước
ngài, chúng ta ai cũng ngả mũ cúi đầu kính cẩn nghiêng mình.
***
Tháng
Năm 1972.
Mỹ
bỏ bom tại miền Bắc Việt Nam. Ngày 10 Tháng Năm, cầu Long Biên lại bị đánh sập.
Ðến chiều ngày 11 Tháng Năm 1972, tôi lại bị bắt lần thứ hai với tội phản cách
mạng. Ðiều này không có gì là bất ngờ đối với tôi cả. Tôi đã chờ đợi nó từ năm
1971. Khi Tổng Thống Mỹ Nixon cho trực thăng đổ bộ xuống trại tù binh Mỹ ở Sơn
Tây để hòng cướp lại các phi công bị bắt tôi đã thấy tôi bị theo dõi từng bước.
Luôn có một cái đuôi theo tôi.
Và
đến năm 1976, khi cầm lệnh tha, tôi đọc thấy quyết định bắt tôi kể từ Tháng Sáu
năm 1971 thế mà mãi đến một năm sau tôi mới bị bắt kể cũng hơi muộn. Thiếu tá
Công an Cường, thường gọi là Cường cao trực tiếp tới bắt tôi ở quê ngoại tôi:
thôn Ðông xã Hội Xá, Gia Lâm nơi gia đình tôi chạy bom sơ tán về đó.
Lúc
công an xộc vào nhà, tôi đang sửa soạn đi tắm. Tôi cười, bảo với Cường cao là
để tôi tắm xong rồi hãy bắt đi.
Cường
cao rất tử tế bảo:
“Thôi,
anh Vĩnh vào Hỏa Lò rồi hãy tắm.”
Tôi
bảo:
“Vào
đó phải đến ngày đầu tháng mới được tắm chứ.”
Cường
cao bảo:
“Tôi
hứa là sẽ để anh tắm trước khi vào xà lim.”
Mẹ
tôi và vợ tôi gào lên:
“Tội
tình gì mà lại bắt người ta. Sao mà tàn ác thế. Ðã giết người cướp hết của cải
rồi mà vẫn không buông tha.”
Cường
cao ôn tồn bảo với vợ tôi:
“Chị
bình tĩnh lại, yên tâm. Khi nào Mỹ chấm dứt bỏ bom chúng tôi sẽ cho anh ấy về.”
(Thế
mà mãi đến năm 1976 sau khi chiếm được Sài Gòn một năm, họ mới tha cho tôi về).
Còn nữa
Kiều Duy Vĩnh
Thursday,
July 26, 2012 1:41:25 PM
Kỳ
13
Tôi mặc quần áo đi theo Cường cao, ra đầu làng lên xe vào Hỏa
Lò, vào ngục Cửu U vì phải đi qua chín lần cửa mới tới xà lim giam tôi. Với tôi
Hỏa Lò quen thuộc quá.
Tôi
đã trải qua tất cả các xà lim ở đó lần bị bắt trước. Giữ đúng lời hứa, trước
khi tống tôi vào xà lim, Cường cao bảo quản giáo cho tôi đi tắm cẩn thận không
giục giã gì. Tôi vốn con nhà binh, nên rất bình tĩnh trước mọi hiểm nguy, lần
trước cũng như lần này. Tắm xong tôi ung dung tự tại ngồi thở Yoga chờ cơm.
Vì
đã được nghe kể và đã rút kinh nghiệm từ lần trước, ngay ngày hôm sau, vợ tôi
thăm nuôi tiếp tế cho tôi, muối vừng rất mặn, kẹo bột và chè lam. Mấy ngày đầu
tôi không đến nỗi đói, và đã có chiều dài 10 năm tù trước, đã từng ở Cổng Trời,
sức chịu đựng của tôi đã được tôi luyện nên tôi cứ ngồi thở Yoga. Ba bốn ngày
trôi qua, chả có ma nào hỏi cung mình cả. Cường cao nghe nói hắc xì dầu lắm, mà
sao lại lịch sự tử tế với mình thế.
Trước
lúc vào xà lim, Cường cao bảo tôi:
“Anh
chắc phải hiểu chứ, Mỹ lại bỏ bom. Vậy nên bắt lại anh là điều tất nhiên thôi. Chúng
tôi buộc phải tháo cái ngòi nổ. Thôi, cứ đi trại ít lâu dừng ném bom là về.”
Anh
ta lại còn nói tiếng Pháp với tôi nữa:
“Chắc
anh lại mỉa chúng tôi: La raison du plus fort est toujours le meilleur chứ gì.”
Tôi
im lặng vào xà lim không trả lời.
Một
tuần trôi qua, rồi hai tuần. Cũng không ai hỏi han gì. Mà thực tình ra, còn gì
nữa mà hỏi. Lần tù 10 năm trước khai báo ở ty Niết hết rồi. Lần này mới về được
ít lâu thì lại bị bắt lại. Có gì để khai mà hỏi. Cũng mong đi trại cho nó yên
một bề thế mà bỗng một hôm, được gọi lên hỏi cung. Mừng quá. Có dịp đi lại ra
ngoài thở không khí.
Một
cán bộ còn trẻ, ăn mặc chỉnh tề lịch sự. Hỏi toàn những chuyện đâu đâu: Bên
Tây, bên Mỹ, bên Thái Lan và miền Nam. Tôi trả lời ấm ớ lửng lơ con cá vàng. và
rồi đột ngột, tôi bảo là quên hết tất cả rồi. Anh ta vẫn rất từ tốn, bảo tôi cố
nhớ lại, giúp cho anh ta có thể đánh giá chính xác đúng những con người ở xa
xôi đó.
Tôi
bảo:
“Tôi
đang đói đây, đang ho lao đây, đang mệt rũ ra đây. Bây giờ là gần 11 giờ trưa
rồi, tôi chưa được một hớp nước, chưa được một miếng gì cho vào bụng nên tôi
đói lắm, mà dạ dầy đói thì không có tai để nghe. Xin để cho đến chiều hoặc mai.
Ðưa tôi về xà lim nghỉ thôi.”
Tôi
tưởng anh ta sẽ nổi cáu.
Nhưng
không:
“Thôi
được, anh về, mai tôi sẽ gặp lại.”
Sáng
mai, tôi được gọi lên. Sau khi ngồi vào ghế, anh ta rút trong cặp ra hai cái
bánh mì Badega kẹp thịt, một gói thuốc ho Rimifon, một bánh xà phòng thơm đưa
cho tôi:
“Anh
ăn đi. Còn các thứ này để dùng khi đi trại.”
Giọng
nói, ánh mắt đầy sự tử tế. Tôi ung dung ngồi ăn hết hai cái bánh mì và chờ đợi
những câu hỏi hắc búa. Nhưng không, thấy tôi ăn xong, anh hỏi:
“Tôi
đã đọc kỹ hồ sơ lý lịch của anh rồi. Ðọc kỹ, nhưng chưa đầy đủ bằng gặp chính
con người của anh. Hôm qua gặp, thấy anh nói bị đói và bị ho nên hôm nay tôi
đem đến cho anh ít thuốc. Thế thôi nhé. Anh có thể về được rồi.”
Và
anh ta gọi quản giáo dẫn tôi về xà lim. Tôi hơi ngạc nhiên trước sự việc đó.
Lúc ấy là Tháng Năm 1972. Năm 1976 tôi được tha, đến năm 1979 tôi đang đạp xe
đạp ở phố Lò Ðúc thì thấy có người gọi:
“Anh
Vĩnh, anh Vĩnh.”
Tôi
quay lại không nhận ra ai. Anh ta cười bỏ mắt kính ra, tôi liền nhận ra anh:
người cán bộ hỏi cung đã cho mình bánh mì và thuốc.
Tôi
mời anh đi uống bia, anh từ chối và bảo:
“Tôi
rất mừng là thấy anh trở về mạnh khỏe thôi, tôi xin lỗi vì có việc bận không đi
uống bia với anh được. Chúc anh khỏe và gặp nhiều điều tốt lành.”
Tôi
cố nài mời anh, anh nhất quyết chối từ, bắt tay xin lỗi và đi. Tôi có hỏi tên
anh, anh vờ như không nghe thấy và không trả lời. Cảm ơn anh.
Sau
câu chuyện hỏi cung trên, tôi đi trại Vinh Quang (thuộc tỉnh Vĩnh Phú). Gặp lại
một số người quen cũ, tay bắt mặt mừng, cứ như là đi phép trở lại đồn vậy. Kể
cũng nực cười. Và chính ở trại này, tôi gặp một vị thánh tử vì đạo nữa: Lâm
Ðình Tuy, người Nam Hà, giáo dân địa phận Bùi Chu.
Khi
tôi lên trại Vinh Quang được ít lâu thì có một tu sĩ tên là Hiếu ở địa phận
Thái Bình được thả về tự do. Nhưng chỉ độ ba tháng sau, lại thấy tu sĩ Hiếu bị
bắt đem lên trại. Mọi người đều mừng mừng tủi tủi, và cũng coi như tu sĩ được
đi phép về. Riêng giáo dân thì hồ hởi lắm. Hỏi ra thì mới biết là khi được tự
do, Giáo Hội đã phong tu sĩ Hiếu làm linh mục và khi bị bắt lại Linh Mục Hiếu
đã đem theo được “Mình Thánh” vào trại tù. Các tín đồ Thiên Chúa Giáo một mực
rất kính trọng Linh Mục Hiếu, săn sóc, chăm nom cực kỳ chu đáo, có quà gì cũng
đem biếu: một ấm chè ngon, một củ sắn luộc, vài cái bánh ngọt mới được tiếp tế.
Linh
Mục Hiếu có dáng vẻ một trí thức nho nhã, trắng trẻo, đẹp trai, thông minh,
trạc 35 tuổi. Một con người không có gì để chê trách, phàn nàn về mọi phương
diện. Ăn ở, ứng xử với mọi người lúc nào cũng khiêm tốn, nhã nhặn tươi cười,
hòa đồng với mọi lớp người trong tù không phân biệt chính trị hay hình sự.
Linh
Mục Hiếu lên trại Vinh Quang lần thứ hai thì được Phó Giám Thị Cự công bố với
toàn trại tù là ông cha đạo Hiếu này chính là một tên lưu manh chuyên nghiệp.
Mọi người cứ há mồm, ngớ ra không hiểu.
Cự
giải thích như sau:
“Hiếu
là một tên vốn lười biếng, thích ăn ngon mà không thích lao động, một tên ăn
bám xã hội, trông mẻ người anh ta thì thấy ngay là loại ăn trắng mặc trơn, ăn
ngon mặc đẹp nên đi tu, làm nghề tôn giáo, lừa bịp các giáo dân để kiếm ăn. Thử
hỏi, dưới chế độ XHCN của chúng ta, những người yêu lao động có thể nào chấp
nhận phần tử ăn bám đó. Trí thức như Hiếu, thì giá trị không bằng cục cứt
(trích Mao Trạch Ðông), mà trí thức gì cái anh ta: Học được mấy chữ “la tanh
tưởi” đến nhà thờ rao giảng, lẽ thường ra khấn khứa thì cứ theo lối Việt Nam
ta: gần bay là xa bay bổng mời các cụ về hưởng lộc cho con cháu. Nhưng y lại
không khấn khứa như thế, y nói: 'Ca tê riom, ca thế dran,' ra cái điều cao siêu
bí hiểm, nó có cái quái gì là bí hiểm đâu, nó là: cá trê rán, cá trê om nói
trệch đi, thế thôi. Ðấy y lừa bịp các giáo dân như vậy đấy. Chỉ để kiếm miếng
ăn như mấy lão thầy cúng chập chững ấy mà.
Còn nữa
Kiều Duy Vĩnh
Saturday,
July 28, 2012 1:45:36 PM
Kỳ
14
Lần thứ nhất đã bị bắt tưởng vào tù đã cải tạo được, nên tha cho
về làm người lương thiện. Nhưng vẫn chứng nào tật ấy, ngựa theo đường cũ, lại
tiếp tục hành nghề nên phải bắt lại lần thứ hai.
Như
thế là y đã tái phạm nhiều lần. Vậy thì y đích là tên lưu manh chuyên nghiệp
rồi còn phải thắc mắc gì nữa.”
Phó
giám thị Cự nói trơn tru láo liên như vậy với bộ mặt xám và lạnh, tù nghe không
một ai dám cười cả. Còn tôi, tôi cứ ngớ cả người ra. Ðến ngay cả ở trại Cổng
Trời cũng chưa thấy giám thị, quản giáo nào dám giải thích như vậy cả.
Hắn
nói gì thì mặc hắn, chúng tôi để ngoài tai. Nhưng với ông Lâm Ðình Túy, thì
những điều mà phó giám thị Cự nói làm cho ông khó chịu. Và ông lại tỏ vẻ khó
chịu hơn khi thấy các giáo dân cứ quây quần quanh Linh mục Hiếu để ăn uống, chè
chén, quá chu đáo.
Thế
rồi một ngày Chủ Nhật nghỉ, nhân lúc các tín đồ và Linh mục Hiếu đang ngồi ăn
uống chuyện trò vui vẻ thì bác Lâm Ðình Túy xuất hiện. Bác đứng trước mặt Linh
mục Hiếu, chỉ tay nói với giọng giận dữ, Bác đọc một loạt những câu tiếng La
Tinh ở trong Évangile cốt để cho Linh mục Hiếu nghe. Tôi không hiểu những lời
đó có ý nghĩa mạnh mẽ ra sao, nhưng tôi thấy Linh mục Hiếu tái mặt đứng dậy bảo
các con chiên giải tán, và từ đấy không thấy tập hợp nhau nấu nướng ăn uống gì
nữa.
Sau
chuyện này, cuộc sống ở trại Vinh Quang cứ lặng lẽ trôi. Có điều đối với riêng
tôi, một đối tượng cần phải chuyên chính đàn áp thì mũi dùi của phó giám thị Cự
luôn chĩa vào tôi. Vợ tôi lên thăm nuôi tiếp tế bị đuổi về không cho gặp và
nhận.
Thỉnh
thoảng tôi lại bị gọi lên lục vấn, chấn chỉnh đe dọa, và những buổi nói chuyện
ở Hội trường đều bóng gió nói đến tôi: liệu hồn mà chịu phép cải tạo. Tôi được
phân công vào toán già đan lát cùng với bác Lâm Ðình Túy.
Bác
Túy gầy yếu xanh xao. Rất ít nói. Nhìn bác, tôi lại nhớ đến Tu sĩ Ðinh Hiền
Lương, dòng tu ép xác Châu Sơn, tù ở Cổng Trời với tôi và đã chết. Ðầu cũng cắt
ngắn gần như trọc, cả ngày chả nói một câu chuyện, cứ ngồi yên lặng lẽ nhìn,
nhìn đấy mà chả nhìn thấy gì cả.
Nhưng
có một điều rất khác. Rất khác là khi làm việc thiêng liêng, bất cứ vào thời
điểm nào, ngay cả trong lúc đang làm việc ở ngoài đồng, ngoài trại, bao giờ bác
cũng quỳ xuống, kính cẩn cúi đầu như ở trong nhà thờ làm lễ. Bác để hết tâm trí
vào việc cầu nguyện, lúc đó coi như không còn ai ở chung quanh, kể cả giám thị
trại, quản giáo, lính coi tù, bác vẫn quỳ xuống mà nguyện cầu, ngang nhiên làm
như thường. Mà có cái lạ nữa là những giám thị và quản giáo không làm gì để
ngăn cấm bác cả.
Khi
tôi lên trại tù Vinh Quang thì mọi việc đã diễn ra như vậy rồi, và vẫn tiếp tục
diễn ra như vậy, mọi người đều cho đó là một chuyện bình thường làm tôi rất
ngạc nhiên khi tôi đem so sánh với những chuyện đã xẩy ra ở trại Cổng Trời lần
tù trước (1960-1970). Tôi có tò mò hỏi một giaó dân cùng quê cùng xứ đạo với
bác Túy thì giáo dân đã cho tôi biết là từ khi bị bắt lên đến trại giam Nam
Ðịnh bác đã làm như thế rồi. Giam mãi ở xà lim, cùm mãi rồi lại phải thả ra,
bác vẫn cứ thế. Cuối cùng, các ban giám thị ở trại dưới đành chịu thua bác,
đành để bác như vậy, cho đi cùm ở xà lim thì chính ban giám thị lại mắc mưu của
ông ta, ông ấy chỉ thích nằm xà lim thôi. Không bị ai quấy rầy, lại cơm bưng
nước rót, cùm thì chân ông ấy chỉ bằng cái que tăm ấy, có cùm thì cũng như
không. Thế là ban giám thị lại lôi ra bắt đi làm. Ông đi ra, nhưng không làm gì
cả. Ðến chỗ làm là ông ngồi vào một góc rồi quỳ xuống cầu kinh. Xong thì lại
ngồi im lặng nhìn. Rồi đi về trại. Thế thôi. Chắc là họ đã họp lên, họp xuống
nhiều lần lắm rồi, để tìm một đối sách trị ông. Kết quả: là cứ đành để mặc ông
ta như vậy. Nếu không chỉ còn một cách là giết ông ta đi mà thôi. Thời điểm
giết ông thì chưa đến. nên mặc nhiên ông là người độc nhất trong trại được
hưởng quyền ưu tiên như vậy.
Năm
1972 tôi lên trại Vinh Quang gặp ông, đã thấy ông như vậy. Cũng như tu sĩ Ðinh
Hiền Lương, ông rất ít nói, ông hay ngồi tĩnh lặng để nghe và nhìn, và chắc ông
nhìn và nghe được nhiều điều lắm, nên ánh mắt ông nhìn tôi có rất nhiều thiện
cảm. Chắc hẳn ông biết tôi đã đi tù nhiều năm, đã từng ở Cổng Trời, nên đôi lúc
có trao đổi với tôi một vài điều, chứ không phải là một vài câu chuyện, tỷ như:
“Trước
ông Vĩnh có ở Bùi Chu à?”
“Vâng,
năm 1951-1952 tôi có đóng quân ở Hành Thiện ở cùng với Tiểu đoàn Công Giáo số
16. Tôi đã có hân hạnh được gặp đức giám mục coi sóc địa phận Bùi Chu, Ðức Cha
Phạm Ngọc Chi.”
Lần
sau ông hỏi tôi:
“Ông
có ở tù cùng với cha Hân không?”
“Có,
tôi có được gặp cha Hân và được chứng kiến cái chết của cha Hân ở trong tù.”
Lần
sau nữa:
“Ông
cũng có biết tu sĩ Ðinh Hiền Lương dòng ép xác Châu Sơn à?”
“Vâng,
tôi có ở trong tù cùng với tu sĩ Ðinh Hiền Lương và tu sĩ Lương đã chết ở Cổng
Trời rồi.”
Ông
hỏi ngắn gọn có thế, và chỉ cần tôi trả lời có thế, và thế là đủ.
Ðã
là tù thì phần lớn đều phải thấy rằng:
Thứ
nhất được tha, Thứ nhì tiếp tế, Thứ ba “ăn mềm” (thịt). Ðược gọi ra tiếp tế,
mừng ra mặt. Bồn chồn mong cho chóng đến lượt mình để được gặp người thân và
được ăn no. thế mà có lần tù ở phòng tiếp tế thăm nuôi vào gọi đích danh Lâm
Ðình Túy ra gặp người nhà. Ông ngước mắt nhìn lên không đáp lại. Người gọi là
một tù hình sự nên anh ta văng ngay ra:
“Ð.m,
còn chần chờ gì nữa. Nhiều lắm, thấy một gánh nặng cật lực. Nhanh lên đi.”
Còn nữa
Kiều Duy Vĩnh
Sunday,
July 29, 2012 1:44:12 PM
Kỳ
15
Ông
lại ngước mắt nhìn, không nói năng gì. Và rồi ông không ra gặp người thân để
nhận đồ tiếp tế. Ở đôi mắt hiền từ của ông, tôi thấy ánh lên một điều quyết
định gì đấy, nó giống như ánh mắt tu sĩ Ðỗ Bá Lung ở Cổng Trời nhìn anh em
trước khi đi xà lim và chết!
Thế
rồi Tháng Mười Hai năm 1972, Mỹ bỏ bom B52. Tôi và một số phần tử nguy hiểm,
trong đó có ông được lọc ra dẫn vào trại C sâu ở trong núi. Chúng tôi bị lùa
tuốt vào một hầm ngầm đào sâu dưới lòng núi. Nếu bom Mỹ mà bỏ gần đấy, hầm sập
là chết hết khỏi phải chôn. (Cái hầm này gần chỗ xà lim, giam phi công Mỹ, anh
Phan Hữu Văn biết rõ vị trí này).
Ðược
vài ngày, thấy tình hình quá căng thẳng, họ vội vã chuyển chúng tôi lên Lao Kay
ở trại Phong Quang. Hết Vinh Quang rồi lại Phong Quang. Sao mà họ khéo đặt tên
hay đến thế cho các nhà tù ở miền Bắc này. Nào là” Thanh Cầm Thanh Hóa: Ðàn
xanh, nào Ba Sao Nam Hà: Ba vì sao sáng, nào Hồng Ca Yên Bái: Bài ca mầu hồng.
Trại Ngọc: Ngọc ngà châu báu. Yên Hòa Phú Thọ: Yên vui hòa thuận. An Thịnh
Tuyên Quang: An ổn và thịnh vượng.
Ði
tù mà Vinh Quang, và ở chỗ Phong Quang thoáng mát, thì nhất rồi còn phải kêu ca
phàn nàn gì nữa.
Nhưng
thật ra cái nhà tù Phong Quang này ở tít trong cùng tận của rừng xanh, núi đỏ,
sát biên giới Việt-Trung nơi tận cùng của đất nước mà lại là Phong Quang thì
cái tài dùng chữ “mỹ từ pháp,” tài lừa bịp đã đạt tới mức siêu đẳng rồi.
Chúng
tôi được chuyển từ trại Vinh Quang, lên Phong Quang, Lao Kay. Lên đến trại vào
quãng nửa đêm. Trại ở sâu trong rừng và cũng phân ra A, B, C. Vì trại Cổng Trời
được phong “Anh Hùng” nên các trại dưới đều phải học tập rút kinh nghiệm để noi
theo.
Và
nếu ta cho điểm Cổng Trời là 10 thì Phong Quang cũng được 7 hoặc là 8. Ở đây
cũng ghê lắm. Có một quản giáo ác ôn tên là Tằng, người Thái Bình, mặt da tai
tái, mắt ti hí mắt lươn lại hơi toét, to béo, khỏe mạnh, vũ phu, tướng của một
tên côn đồ đứng bến xe, cười cười nói nói, chuyên gọi tù bằng thằng. Khi cần,
môi mím lại, mặt tái dại hẳn đi, lúc ấy là có chuyện giết người đấy.
Chúng
tôi đến trại được quản giáo Tằng tiếp đón chu đáo: đèn pin dọi vào mặt từng người,
tay thọc ngay vào hạ bộ chộp lấy sờ nắn, khám xét.
“Thôi
được, vào ngủ đi. Sáng mai sẽ hay.” Hắn bảo thế.
Và
sáng hôm sau, tôi được chứng kiến một điều mà hai lần tù gần 15 năm tôi chưa
thấy bao giờ, trước không có và sau này cũng khó có.
Một
chuyện động trời.
***
Quản
giáo ác ôn Tằng, cầm bản danh sách tù đi đầu, theo sau lưng là một tiểu đội
súng ống và một lũ tù hình sự tay sai làm trật tự viên trong đó có một tên hung
ác nhất tên là Nhạn, người Hải Phòng.
Theo
thường lệ, tù được gọi đến tên, ôm đồ đạc ra trước mặt quản giáo, rồi để những
tù hình sự trật tự viên lục lọi khám xét. Lần lượt như vậy. Cho đến lúc gọi tên
Lâm Ðình Túy. Không thấy trả lời. Ác ôn Tằng cao giọng đến lần thứ ba rồi cáu
quát:
“Nó
đâu? Thằng Túy đâu. Câm hả.”
Trong
lúc khám xét ai cũng lo lấy thân mình trông lấy đồ đạc của mình. Cũng chẳng
biết ông Túy ở đâu để mà giúp đỡ cả. Lúc đó ông Túy đang quỳ ở một góc để làm
việc thiêng liêng. Cũng như ở các trại dưới, như ở trong nhà thờ, ông quỳ xuống
cúi đầu nghiêm chỉnh, đàng hoàng, đĩnh đạc cầu nguyện thành kính. Với ông lúc
ấy không có ai ở chung quanh, không có chuyện gì xảy ra cả. Vì mới đến hồi đêm,
nên chưa kịp bàn giao những gì chi tiết, và cũng chưa có thì giờ để đọc hồ sơ
lý lịch từng người, nên hắn, quản giáo ác ôn Tằng, cực kỳ giận dữ trước sự việc
dám coi thường hắn đến như thế.
Hắn
đã gọi, gọi đến ba lần mà thằng tù không thèm đáp lại. Lâu nay có thế này bao
giờ đâu: hắn nói mọi người phải răm rắp tuân theo, bây giờ lại có một thằng tù
chính trị dám coi thường hắn. Ác ôn Tằng lừ lừ đi đến. Sau này tôi mới được
biết là tù ở đây sợ hắn như cọp, hắn đánh tù không tiếc tay, tự tay hắn đánh,
mệt, hắn sai tù tay sai đánh tiếp cho hắn xem cho hả lòng ác độc và đánh cho
đến chết. Có một tù hình sự còn trẻ, không biết lúc hắn đi qua, đùa với bạn,
giơ tay giả làm súng bắn, miệng kêu: tằng, tằng, tằng. Thế là phạm húy, bỏ mẹ
rồi. Hắn gọi ra cho ăn đòn và ít lâu sau ngấm đòn chết. Thành ra ai cũng sợ.
Nhìn thấy hắn là sợ rồi. Con người hắn toát ra tử khí. Thế mà Lâm Ðình Túy lại
không biết điều đó.
Hắn
lừ lừ đi đến.
Hắn
nắm gáy ông lôi đứng dậy, ông vốn nhẹ cân và gầy yếu.
“Mày
là thằng Túy. Sao tao gọi mày không trả lời hả?”
Ông
nhìn hắn, từ từ quay người đứng thẳng dậy trước mặt hắn. Và thật bất ngờ đối
với tất cả, ông giơ tay tát thật mạnh vào tên ác ôn Tằng, rồi ông lại từ từ
quay người quỳ xuống tiếp tục làm công việc thiêng liêng của mình.
Chắc
chắn là đối với tất cả những người đi tù ở miền Bắc này, từ xưa cho tới lúc ấy
chưa có ai, chưa có bao giờ một người tù dám tát vào mặt quản giáo hay một
người lính coi tù cả. Ðiều này xảy ra ngoài sức tưởng tượng của ác ôn Tằng nên
hắn phản ứng rất là chậm chạp. Hắn đứng yên, hai tay thõng xuống mặt nghệt ra.
Chúng tôi ngơ ngác bàng hoàng và chờ đợi. Ðây là chuyện động trời ở trong trại
tù. Tù đánh quản giáo. Không phải là chuyện khi bị đánh thì chống lại, đánh lại
mà lại ngang nhiên đánh tát vào mặt. 15 năm tù tôi chưa bao giờ thấy có chuyện
ấy xẩy ra: Tù tát vào mặt quản giáo ác ôn và quản giáo đứng yên chịu trận.
Còn nữa
No comments:
Post a Comment