LS Đỗ
Thái Nhiên
September 11, 2012
September 11, 2012
Một
khế ước do hai hay nhiều người thành lập. Khế ước ra đời chưa ráo mực các người
đồng ước đã giải thích khế ước theo nghĩa riêng của mỗi người. Khế ước kia lập tức
từ trần. Nó sẽ chẳng bao giờ được thi hành.
Bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền công bố ngày 10 tháng 12 năm 1948. Lời mở đầu của
tuyên ngôn này được kết thúc bằng câu viết nguyên văn rằng:
“Một quan niệm chung về tự do và nhân quyền là điều tối
quan trọng để thực hiện trọn vẹn cam kết ấy (cam kết tôn trọng nhân quyền)”.
Sau
nhiều thập niên trôi nổi trong thế giới loài người, thay vì được hiểu theo một quan niệm chung, Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã bị hoặc cá nhân, hoặc đoàn thể, nhất là giới chức
cầm quyền của các quốc gia giải thích theo nhiều quan niệm riêng. Những quan
niệm riêng kia đều có chung một mục đích: vừa biện minh cho hành động chà đạp
nhân quyền, vừa tránh né nghĩa vụ bảo vệ nhân quyền.
Những
quan niệm riêng kia xuất phát từ hai lý luận căn bản sau đây:
1)
Một là: Mỗi dân tộc có một nền văn hoá riêng, mỗi quốc gia cần có quan niệm
riêng về nhân quyền sao cho phù hợp với văn hoá của quốc gia sở tại.
2)
Hai là: Nhân Quyền là sản phẩm tư tưởng của các quốc gia thắng trận trong đệ
nhị thế chiến. Họ là những quốc gia Tây Phương. Vì vậy Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền có khuynh hướng đề cao cá nhân chủ nghĩa theo kiểu Âu Mỹ. Sự thể này gây
khó khăn cho công việc điều hành xã hội tại môt số quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia vùng A’ Châu.
Hai
luận điểm nêu trên hiển nhiên là hai tảng đá cực lớn làm tắc nghẽn con đường
phát triển nhân quyền. Gọi là tảng đá cực lớn bởi lẽ hai luận điểm vừa kể tuy
mơ hồ và vô căn cứ nhưng vẫn đủ sức hấp dẫn những người hiểu biết hời hợt về
nhân quyền. Sự thể này làm cho tính thuyết phục của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền phần nào bị hoài nghi. Muốn giải trừ các lý lẽ bài bác nhân quyền, con
người không thể không tìm tới triết học. Triết học là môn học lý giải mọi hiện
tượng trong đời sống, đồng thời, hoạch định một đời sống cân phân và ổn đinh,
một đời sống trong đó mọi nhu cầu được bình đẳng triển nở, không nhu cầu nào
chèn ép nhu cầu nào. Làm thế nào để nhân quyền có thể vươn vai lớn mạnh, đồng
thời, an ninh trật tự công cộng của xã hội không vì thế mà bị xâm lấn? Trả lời
câu hỏi này, chúng ta không thể không tìm hiểu vị trí của con người trong đời
sống và mối quan hệ song phương giữa con người và xã hội.
Cho
đến ngày nay, trên địa bàn triết học, chúng ta thấy sự xuất hiện của rất nhiều
tư tưởng giải thích cội nguồn của đời sống. Trong đó có hai luồng tư tưởng đáng
chú ý: Đó là Duy Vật và Duy Tâm.
-
Triết học Duy Vật chủ trương: thế giới chỉ là thế giới vật chất và những thuộc
tính của nó. Vật chất sản sinh ra mọi hiện tượng sống. Vật chất là chính. Tinh
thần và những năng lực trừu tượng khác đều là phụ, đều là thuộc tính của vật
chất.
-
Ngược lại, những người Duy Tâm lại chủ trương tinh thần chi phối vật chất. Tinh
thần là đầu mối của mọi hiện tượng sống.
Câu
hỏi được đặt ra là: tinh thần hay vật chất đã sản sinh ra mọi hiện tượng sống?
Để
trả lời câu hỏi vừa nêu, chúng ta hãy suy nghĩ về vận hành của một nguyên tử
vật chất. Như chúng ta đã biết, mỗi nguyên tử vật chất đều có nhân nguyên tử và
một số điện tử cùng trung hòa tử xoay vần chung quanh nhân tạo thành một khối
hình cầu. Đó là thành phần vật chất của nguyên tử. Mặt khác, chúng ta cũng ghi
nhận thêm rằng thành phần vật chất của nguyên tử đã vận hành theo một trật tự
nhất định. Trật tự đó không là vật chất. Trật tự đó chính là thành phần trừu
tượng của nguyên tử. Trong thực tại đời sống: cấu tạo vật chất của nguyên tử
không thể tồn tại nếu không có trật-tự-vận-hành đi kèm. Cũng trong thực tại đời
sống, chúng ta không thể nhận thức được trật tự của nguyên tử nếu cấu tạo vật
chất của nó đã tan biến. Nói cách khác, cái cụ thể và cái trừu tượng, vật chất
cũng như tinh thần đều không có năng lực đơn phương tồn tại, vì vậy chủ trương
cho rằng Duy cái Vật
hay Duy cái Tâm
đã sản sinh ra mọi hiện tượng sống, hiển nhiên là chủ trương không phù hợp với
thực tại của đời sống. Sai lầm của Duy Tâm hay Duy Vật là ở chữ “DUY”. Vật hay
Tâm không có khả năng đơn phương tồn tại. Tại sao Duy Vật hay Duy Tâm lại có
khả năng sản sinh ra mọi hiện tượng sống? Cả Duy Tâm lẫn Duy Vật đều sai lầm.
Vậy thì tiền đề của đời sống là gì? Cội nguồn của đời sống ở đâu?
Nhà
tư tưởng lừng danh của Việt Nam, ông Lý Đông A trả lời câu hỏi vừa nêu như sau:
Hiện
tượng sống được phản ánh bởi ngôn ngữ. Ngôn ngữ của bất kỳ dân tộc nào cũng gồm
hai loại từ: từ cụ thể và từ trừu tượng. Khi một từ trừu tượng chứa trong nó
một số từ cụ thể hoặc một số từ trừu tượng khác, thì từ “có sức chứa” như vừa
nói được gọi là phạm
trù.
-
Xoài, mít, ổi… là các từ cụ thể. “Thực vật” là phạm trù, bởi vì từ “thực vật”
hàm chứa trong nó: xoài, mít, ổi… và vô số cây cỏ khác.
-
Đồng, chì, kẽm… là các từ cụ thể. “Khoáng sản” là phạm trù của đồng, chì, kẽm…
-
Thương, ghét, vui, buồn… là các từ trừu tượng. “Tình cảm” là phạm trù của những
từ trừu tượng đó.
Sau
khi đã nắm vững ý niệm phạm trù, chúng ta hãy phân loại hiện tượng sống theo
phạm trù. Trước tiên, bạn hãy dành cột thứ nhất để cất đặt những hiện tượng
không do loài người chủ động tạo ra. Ở cột này, bạn sẽ thấy: thực vật, động
vật, khoáng sản, thời tiết, thiên tai, v.v… Tại đỉnh cao nhất của cột này, bạn
sẽ thấy phạm trù tự
nhiên.
Kế
đến, bạn hãy cất đặt những hiện tượng liên hệ hai chiều với bộ óc của loài
người tại cột thứ hai. Ở cột này, bạn sẽ thấy các hiện tượng kiểu: ái quốc, thù
hận, nghi ngờ, tin tưởng v.v… Lên đến đỉnh cao của cột hai, bạn sẽ gặp phạm trù tư tưởng.
Như vậy, tư tưởng là phạm trù gói ghém tất cả những hiện tượng trừu tượng gắn
bó với bộ óc như hai mặt của một bàn tay.
Tiếp
theo, bạn cất đặt những hiện tượng do hai người trở lên kết hợp với nhau mà tạo
ra tại cột thứ ba. Bạn thấy: tự do, luật pháp, gia đình, dân tộc v.v… Cao nhất
của cột ba, bạn tìm gặp phạm
trù xã hội. Như vậy, xã hội là phạm trù gói ghém tất cả những
hiện tượng tạo ra do sự hợp quần giữa Người với Người.
Tóm
lại, trước muôn vàn hiện tượng sống, chúng ta đã xếp loại chúng thành ba nhóm
phạm trù: tự nhiên, tư tưởng và xã hội. Chúng ta không thể bỏ đi nhóm nào.
Chúng ta cũng không thể tìm ra nhóm thứ tư. Như vậy hiện tượng sống chỉ có thể
xếp loại thành ba nhóm: tự
nhiên, tư tưởng và xã hội.
Ba
nhóm đó quan hệ với nhau như thế nào? Ổn định hay bất ổn định? Bền vững hay
lỏng lẻo? Để trả lời những thắc mắc vừa nêu lên, chúng ta hãy khảo sát các hình
ảnh sau đây:
Trước
mặt là một dòng sông. Dòng sông là một hiện tượng sống. Sự vật được gọi là dòng
sông không do loài người tạo ra. Nó thuộc phạm trù tự nhiên. Nhờ vào bộ óc, chúng
ta đã nhận ra dòng sông. Động từ “nhận ra” thuộc phạm trù tư tưởng.
Chúng ta dùng từ ngữ “dòng sông” để gọi một lượng nước lớn chảy từ nguồn ra
khơi. Từ ngữ “dòng sông” là ngôn ngữ của xã hội. Nó thuộc phạm trù xã hội.
Một
nhóm người yêu nước đang tham dự cuộc hội thảo về tương lai Việt Nam. Cuộc hội
thảo là một hiện tượng sống. “Yêu nước” thuộc phạm trù tư tưởng. “Một nhóm
người” thuộc phạm trù xã hội. “Việt Nam” hàm chứa: chánh quyền, dân tộc và lãnh
thổ. Lãnh thổ thuộc phạm trù tự nhiên. Chiếc xe hơi là một hiện tượng sống. Xe
hơi được chế tạo từ sắt, thép, plastique và nhiều hóa chất khác lấy từ khoáng
sản. “Khoáng sản” thuộc phạm trù tự nhiên. “Xe hơi” là sản phẩm của óc sáng
chế. “Sáng chế” thuộc phạm trù tư tưởng. Xe hơi được sản xuất từ xí nghiệp xe
hơi. “Xí nghiệp” thuộc phạm trù xã hội.
Từ
ba thí dụ kể trên, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng: bất kỳ hiện tượng sống
nào trong đại vũ trụ cũng là một thống nhất của ba phạm trù: tự nhiên, tư tưởng
và xã hội. Nói rõ hơn, ba phạm trù tự nhiên, tư tưởng và xã hội đã thống nhất
trong từng hiện tượng sống. Kết luận này có hai ghi chú:
Ghi
chú một:
trong đại vũ trụ, ba phạm trù tự nhiên, tư tưởng và xã hội thường hằng thống
nhất. Không hề và không thể có hiện tượng thuần túy tự nhiên, thuần túy tư
tưởng hay thuần túy xã hội. Khi người ta gọi hiện tượng này là tự nhiên, hiện
tượng kia là xã hội, hiện tượng nọ là tư tưởng, chỉ là kiểu nói tương đối, kiểu
nói nhằm nhấn mạnh tính trội yếu của tự nhiên, của tư tưởng hay của xã hội
trong một hiện tượng sống nào đó.
Ghi
chú hai:
Khi nhận diện ba phạm trù tự nhiên, tư tưởng và xã hội trong một hiện tượng
sống, người ta có thể nhận diện mỗi phạm trù từ nhiều mặt khác nhau. Trong thí
dụ chiếc xe hơi, bạn có thể chọn khoáng sản, người khác có thể chọn các qui
luật vật lý được áp dụng để chế tạo chiếc xe hơi như là các khía cạnh của phạm
trù tự nhiên.
Hai
ghi chú nêu trên hẳn nhiên đã giúp cho chúng ta hiểu biết tường tận thế nào là
tính thống nhất thường hằng của tự nhiên, tư tưởng và xã hội trong mỗi hiện
tượng sống. Tại điểm thống nhất này, có người lại đặt câu hỏi: do đâu mà tự
nhiên, tư tưởng và xã hội thống nhất?
Thưa
rằng:
Không
có Con Người, dòng sông có cũng như không.
Không
có Con Người, không thể có cuộc hội thảo về tương lai Việt Nam.
Không
có Con Người, không thể có chiếc xe hơi.
Không
có Con Người, không thể có hiện tượng sống.
Các
khảo sát và phân tích kể trên cung cấp cho chúng ta hai nhận thức:
1/
Con Người có thân xác thuộc phạm trù tự nhiên. Con Người có tư tưởng liên hệ
xoay chiều với bộ óc thuộc phạm trù tư tưởng. Con Người có tính sống hợp quần,
tính này thuộc phạm trù xã hội. Do đó bản
thân mỗi Con Người là một thống nhất điển hình của ba phạm trù: tự nhiên, tư
tưởng và xã hội.
2/
Con Người là cội nguồn
duy nhất trên đại vũ trụ có năng lực tạo ra mọi hiện tượng sống bằng cách thống
nhất ba phạm trù tự nhiên, tư tưởng, xã hội trong mỗi hiện tượng.
Từ
hai nhận thức nói trên, chúng ta có thể đi đến kết luận không một chút dè dặt
rằng: Con người là
chân chính tiền đề của triết học, chứ không phải duy cái tâm
hay duy cái vật. Trên cương vị là tiền đề của triết học con người có ba nghĩa vụ làm người căn
bản sau đây:
Nghĩa
vụ một: Nghĩa vụ đối với bản thân.
Sống
trong xã hội thực tiễn, con người là dân. Lý tưởng sống của dân là nhân. Nhân
là con người toàn thiện toàn mỹ, con người của trung đạo. Trong bản thân mỗi
con người, nhân và dân thường hằng gắn bó với nhau. Người này khác với người
kia chỉ là khác ở điểm: mức độ thể hiện trạng thái nhân trong đời sống. Nghĩa vụ đối với bản thân của mỗi cá
nhân là nghĩa vụ học hiểu ba loại qui luật nhiên, nhân (tư tưởng), dân (xã hội)
nhằm hướng dẫn và thúc đẩy dân đi tìm nhân, thực hiện đời sống nhân, cả về sinh
lý lẫn tâm lý.
Nghĩa
vụ hai: Nghĩa vụ đối với xã hội giới.
Sống
là sống trong xã hội. Sống là giao dịch với xã hội. Mỗi giao dịch là một tổng
hợp ba thành tố: Tự nhiên, tư tưởng, xã hội. Giao dịch có hai loại. Loại một là
loại giao dịch ổn định, giao dịch thành công, giao dịch được con người chấp
nhận: những hành động phù hợp với luân thường đạo lý… Loại hai là loại giao
dịch bất ổn định, giao dịch bị con người chối bỏ: các loại tội ác hình sự cùng
vô số tệ đoan xã hội khác…Nghĩa
vụ của mỗi cá nhân đối với xã hội là nghĩa vụ vận dụng một cách khôn ngoan các
qui luật tự nhiên, tư tưởng, xã hội để tạo thành những giao dịch loại một.
Nghĩa
vụ ba: Nghĩa vụ đối với tự nhiên giới (vũ trụ)
Tự
nhiên bao gồm sinh vật, thực vật và khoáng vật. Tự nhiên là muôn nhiên cho muôn
loài, mỗi loài chỉ có thể tồn tại ổn định trong một môi trường tự nhiên riêng
biệt dành cho loài đó. Nghĩa
vụ của con người đối với vũ trụ là nghĩa vụ vận dụng ba hiểu biết: Khoa học (Tự
nhiên giới), triết học (tư tưởng giới), sử học (xã hội giới) nhằm tạo điều kiện
để vũ trụ muôn nhiên được vận hành đúng qui luật: Loài nào sống theo tự nhiên
của loài đó. Có như vậy môi trường sống mới trong lành cả về
tinh thần lẫn thể chất. Có như vậy con người mới có thể sống hoà cùng vũ trụ.
Từ
vị trí tiền đề triết học của con người, chúng ta đã nhận chân được ba nghĩa vụ
làm người: Nghĩa vụ đối với bản thân, nghĩa vụ đối với xã hội, nghĩa vụ đối với
vũ trụ.
Bây
giờ hãy nói tới mối quan hệ tất yếu giữa nghĩa vụ và quyền hành. Nhân viên cảnh
sát công lộ có nghĩa vụ điều hành lưu thông. Nhân viên này đương nhiên có quyền
biên phạt những người vi phạm luật giao thông. Quyền là công cụ giúp con người
thi hành nghĩa vụ. Công lý đòi hỏi: Nghĩa vụ làm người và quyền làm người phải
gắn bó với nhau như hai mặt của một bàn tay. Đã là con người ắt có nghĩa vụ làm
người, ắt có quyền làm người. Quyền làm người ở đây đã được chi tiết hoá bằng
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ngày 10 tháng 12 năm 1948. Năm 1993, tại Vienna,
170 quốc gia và 1000 Hiệp Hội Nhân Quyền phi chính phủ đã ra tuyên ngôn xác
nhận: Luật Quốc Tế Nhân Quyền bao gồm Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1948) và
hai Công ước Quốc Tế Nhân Quyền về dân sự chính trị và kinh tế xã hội (1966).
Từ
nghĩa vụ làm người như đã luận giải trong bài viết này, chúng ta có thể khẳng
định không nghi ngờ rằng: nghĩa vụ làm người và quyền làm người có tính bẩm
sinh. Bất kể chủng tộc, màu da, giới tính, tuổi tác, văn hoá, tôn giáo… đã là
con người, mọi người đều có nghĩa vụ làm người và quyền làm người giống nhau.
Chân lý này vừa là một thực tiễn của đời sống vừa là sự minh chứng cho nguyên
tắc: “Dân tộc tính và nhân loại toàn tính thống nhất”. Luận cứ vừa nêu mạnh mẽ bác khước lý lẽ rằng mỗi
văn hoá cần giải thích nhân quyền theo nghĩa riêng và rằng Luật Quốc Tế Nhân
Quyền có tính cá nhân chủ nghĩa, không thích nghi với xã hội Đông phương.
LS. Đỗ Thái Nhiên
No comments:
Post a Comment