Phạm
Hồng Sơn - pro&contra
Tháng
9 4, 2012
Cách
đây vài ngày, sau khi báo Nhân dân đăng bài “Xã hội dân sự”- Một thủ đoạn của diễn biến hòa bình”,
có một bài viết truyền tải trên mạng với nhan đề “Về xã hội dân sự tại Việt
Nam” với ghi chú là “Ông Nguyễn Trần Bạt trả lời phỏng
vấn Trung tâm dữ liệu các tổ chức phi chính phủ.”[i] Đọc bài này tôi thấy xen
kẽ những điểm tích cực, có lợi cho xã hội và người dân là những ý kiến, quan
điểm không đúng, nguy hiểm cho tiến bộ xã hội hiện nay.
Sau đây là một vài
điểm nguy hại đó:
Về nhà nước toàn trị
Ông
Nguyễn Trần Bạt phát biểu: “Và đến bây giờ, tôi kết luận là: không có bất kỳ
nguy cơ nào về mặt chính trị cho các nhà cầm quyền, cho Đảng Cộng sản Việt Nam
và cho chính phủ Việt Nam khi chúng ta có một xã hội dân sự lành
mạnh. Ngược lại, nó gỡ cho họ những gánh nặng khủng khiếp trong việc bành
trướng cơ cấu nhà nước để tổ chức quản lý xã hội, cái mà nhiều người không
thiện chí gọi là toàn trị. Tôi cho khái niệm toàn trị là một khái niệm thuần
tuý lý thuyết. Xã hội chúng ta thực ra cũng không toàn trị. Các nhà lãnh đạo
của chúng ta không có ai toàn trị.” (Phần tô đậm là tôi nhấn
mạnh.)
Tôi
không hiểu tác giả Nguyễn Trần Bạt đã dựa vào lý thuyết, nghiên cứu nào khi nói
đến khái niệm “nhà nước toàn trị” rồi đi đến kết luận rằng “Xã hội chúng ta
thực ra cũng không toàn trị. Các nhà lãnh đạo của chúng ta không có ai toàn
trị.”
Về
khái niệm toàn trị hay nhà nước toàn trị, thiết nghĩ hiện nay đã có rất nhiều
thông tin khả tín được công bố, cập nhật trên mạng. Ở đây tôi xin sơ lược thêm
về một nghiên cứu về khái niệm toàn trị (totalitarism, totalitarisme) trong
cuốn Histoire Politique Et Sciences Sociales.[ii] Khi đề cập đến khái
niệm toàn trị (concept de totalitarisme) các tác giả đã có sự tìm hiểu, đối
chiếu giữa các chế độ phi dân chủ khác nhau như chế độ chính trị của Hitler,
chế độ chính trị của Mussolini, chế độ Liên bang Xô-viết dưới thời Stalin, chế
độ Vichy tại Pháp. Mặc dù các tác giả không thể đưa ra được một định nghĩa
thống nhất cho khái niệm toàn trị nhưng từ những nghiên cứu, tranh luận đó có
thể rút ra kết luận là một chế độ toàn trị không thể thiếu hai đặc tính (yếu
tố): 1. Sự khống chế của nhà nước đối với xã hội dân sự thông qua các biện pháp
như tuyên truyền, trấn áp, kiểm soát kinh tế, xã hội và tinh thần (đạo đức); 2.
Sự thu hẹp mức độ tự lập, tự trị của xã hội (kể cả ở nghĩa văn hóa và khả năng
đối phó trong tình trạng thiếu thốn).
Còn đây là một nhận
định cụ thể hơn về chế độ toàn trị trong cuốn sách đó:
“Sự
khủng bố (kiểu) toàn trị tiêu trừ hành động chính trị chắc chắn hơn là sự đe
dọa (nỗi sợ) ngự trị trong các chế độ độc tài ‘cổ điển’. Các đặc điểm chính để
phân biệt giữa độc tài và toàn trị: nỗi sợ độc tài khiến người ta phải câm lặng
(sự im lặng chỉ có tính cá nhân) trong khi đó sự khủng bố toàn trị bắt người ta
phải thừa nhận, ca tụng không ngừng và chán ngắt về ý thức hệ tới mức làm cho
mọi ngôn từ, khả năng lên tiếng phải hư hỏng, sụp lạy vào lòng hệ thống – một
không gian đóng kín trong sự bao trùm của sự im lặng vô nhân. Toàn trị là sự
vắng mặt lý tính, sự vắng bóng ngôn từ chính trị sống động thúc giục hành động.
Vẫn còn nữa, khác với dân chủ được coi luôn đi cùng với sự phát biểu tự do và
không gian công cộng rộng lớn, toàn trị là sự gom tập con người ép chặt nhất.
(Nói như Primo Levi: “Chúng tôi không có khe hở để suy nghĩ.”)” [iii]
Mặc
dù nhận định “Xã hội chúng ta thực ra cũng không toàn trị” của ông
Nguyễn Trần Bạt đã tự cho thấy không phải là một khẳng định mạnh mẽ và việc xếp
loại chế độ chính trị của Việt Nam (về học thuật) có thể còn nhiều bàn cãi
nhưng nếu chúng ta không (hoặc chưa) dám nói thẳng về bản chất độc tài của chế
độ chính trị mà chúng ta đang phải sống lại còn xếp chế độ chính trị (nhà nước)
đó ra khỏi phạm vi “toàn trị” thì, theo tôi, là một sai lầm nguy
hiểm. Khi đó việc đi tìm phương thuốc chữa trị cho chế độ chính trị
đó hoặc ước muốn thúc đẩy tiến bộ cho xã hội chỉ là việc làm vô ích hoặc một
ước muốn đầy mâu thuẫn. Còn về nhận định “Các nhà lãnh đạo của chúng ta
không có ai toàn trị.”, tôi chỉ xin trích dẫn lại ở đây một câu nói nổi tiếng của
Hồ Chí Minh: “Đảng phải lãnh đạo tất cả những tổ chức khác của nhân dân lao
động.”[iv]
Thêm
nữa việc ông Nguyễn Trần Bạt cho rằng những người gọi nhà nước Việt Nam là
“toàn trị” là những người “không thiện chí” là một nhận định không chỉ hoàn
toàn không chính xác về học thuật, vì (về học thuật) chỉ nên đánh giá một quan
điểm là “đúng” hay “sai” chứ không nên đánh giá là “thiện chí” hay “không thiện
chí”, mà còn gây nguy hiểm chính trị cho những người đó vì (về chính trị) nhà
nước Việt Nam hiện nay vẫn luôn qui chụp những người bất đồng chính kiến, phê
phán nhà nước là “thù địch” – nấc cao hơn của “không thiện chí”.
Về nhân quyền
Khi
bàn đến vấn đề nhân quyền (quyền con người) ông Nguyễn Trần Bạt có đưa ra hai
nhận định:
Nhận
định (1):
“Người ta tưởng rằng nhân quyền gắn liền với sự đòi đất, kêu oan, biểu tình,
nhưng tôi không nghĩ như vậy. Con người sở dĩ ăn vạ chính phủ là vì họ không có
năng lực.”
Chưa
nói đến vấn đề học thuật và pháp lý (sẽ bàn cùng với nhận định (2)), thì quan
điểm cho rằng những hoạt động, phản ứng của người dân như “đòi đất, kêu oan,
biểu tình” là việc “ăn vạ chính phủ” và vì những người dân đó “không có năng
lực” là một quan điểm phi thực tế và phi nhân quyền. Phi thực tế vì đa phần dư
luận hiện nay đều chia sẻ, cảm thông và thấy rõ việc “đòi đất, kêu oan, biểu
tình” là những việc làm đúng đắn, không đừng được của người dân trong tình
trạng cùng cực, bế tắc. Phi nhân quyền vì “đòi đất, kêu oan, biểu tình” một
cách ôn hòa đều thuộc nhân quyền cơ bản: “Quyền Tự do Thể hiện” (freedom of
expression) đã được ghi rõ trong các văn bản nhân quyền quốc tế. Đây cũng là
một nhận định hết sức nguy hiểm và phản lại những tiến bộ xã hội hiện nay. Nguy
hiểm là vì quan điểm này có thể mở đường hoặc gợi ý sai lệch cho những người
làm chính sách, cầm quyền quốc gia coi những phản ứng, bức xúc của dân chúng
hiện nay đối với các bất công, tiêu cực là một hoạt động cần ngăn chặn, nghiêm
trị vì họ là những người “ăn vạ”, lười biếng, “không có năng lực”.
Nhận
định (2):
”Tôi đã có một kết luận rằng nhân quyền không còn là quyền chính trị, nhân
quyền là quyền phát triển và chống lại rủi ro của cuộc sống.”
Nhận
định này nếu xem qua thì có thể cho rằng là một sáng tạo mở rộng về nhân quyền.
Nhưng thực chất nhận định này lại làm sai lệch cho nhận thức về nhân quyền và
nhận định này có hình thức giống như những gì mà các chế độ độc tài luôn bao
biện cho việc vi phạm, cắt xén nhân quyền. Thứ nhất, căn cứ vào hai văn bản có
tính phổ quát nhất về nhân quyền (Tuyên ngôn Toàn thế giới về Nhân quyền (năm
1948) và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (1966) của Liên Hợp
Quốc) thì nhân quyền phải và luôn bao gồm các quyền chính trị (quyền tham gia
vào việc điều hành các công việc xã hội, quyền bầu cử, ứng cử, v.v.). Có thể
nói từ chối quyền chính trị hoặc coi“nhân quyền không còn là quyền chính trị
nữa” đều đồng nghĩa với việc xóa bỏ nhân quyền. Bởi nhân quyền là một tập hợp
các quyền cơ bản không thể tách rời hay thay thế. Thứ hai, việc cho rằng “nhân
quyền là quyền phát triển và chống lại rủi ro của cuộc sống” là một quan
điểm mập mờ và thoái hóa so với các công ước về nhân quyền đã nêu vì vô hình
chung quan điểm này đã xóa mờ đi các nhân quyền đã được cụ thể hóa trong các
văn bản có tính phổ quát toàn thế giới.
Có
thể nói hai nhận định trên đây của ông Nguyễn Trần Bạt về nhân quyền không chỉ
làm nhận thức về nhân quyền trở thành mập mờ khó hiểu mà còn đẩy lùi nhận thức
về nhân quyền trở lại phía sau hàng chục năm.
Đó
là hai điểm tôi cho là sai lầm nguy hại nhất (vì tính chất làm nền tảng cho
nhiều nhận thức khác) trong bài viết trả lời phỏng vấn của ông Nguyễn Trần Bạt.
Ngoài ra còn một số điểm sai lầm nguy hại khác như dưới đây.
Về chỗ đứng của nghiên cứu khoa học
Ông
Nguyễn Trần Bạt phát biểu: “Nghiên cứu xã hội học tức là anh phải đặt mình
vào địa vị của nhà cầm quyền, bởi vì bao giờ những nghiên cứu xã hội cũng phải
bắt đầu từ lực lượng xã hội mạnh nhất, mà lực lượng xã hội mạnh nhất chính là
các đảng chính trị cầm quyền. Vì nếu không xuất phát từ quyền lợi của các đảng
chính trị cầm quyền thì các khái niệm tử tế không hình thành được. Cho nên phải
đặt mình vào địa vị của họ để nghiên cứu cái mà mình muốn có hại gì cho họ
không?”
Điểm này đã tự thể hiện sai quá rõ về
tính độc lập trong nghiên cứu nói chung nên tôi xin không phân tích thêm.
Về
mức độ nguy hại đối với dân trí và tiến bộ xã hội tôi không chắc sự hơn kém
giữa bài trả lời phỏng vấn của ông Nguyễn Trần Bạt và bài “Xã hội dân sự”- Một thủ đoạn của diễn biến hòa bình” đăng trên báo
Nhân dân nói trên. Nhưng tôi chắc chắn nhận diện hay đấu tranh với một
thứ giả hình, mập mờ bao giờ cũng khó hơn rất nhiều với một thứ đã bộc lộ rõ
ràng, thẳng thắn.
©
2012 pro&contra
[i] Bài này đã đăng trên một số
blog như Quê Choa và Anh Ba Sàm.
[ii] Histoire Politique Et
Sciences Sociales. Chủ biên: Denis Peschanski, Michael Pollak, Henry
Rousso, Editions Complexe, 1999. Trang 189-207
[iii] “La terreur totalitaire
annihile l’action politique plus sȗrement que la crainte qui règne
dans un gouvernement despotique “classique”.
Retenons des traits essentiels de différenciation entre
despotisme et totalitarisme ceci: la crainte commande que l’on se taise (une
stratégie individuelle du silence est toujours reserve), la terreur exige la
proclamation incessante et mortifière de l’idéologie jusqu’au point où toute
parole s’abîme au centre du système, c’est-à-dire dans le camp où règne une
silence inhumaine. Le totalitarisme, c’est l’absence du logos, la parole
politique vive présidant à l’action. C’est encore, par difference avec la
démocratie qui suppose, avec la parole libre, l’espace publique, la plus
extrême concentration des hommes dans l’espace. (Primo Levy, évoquant les
“selections” de l’automne 1945 à Auschwitz écrit: “Nous n’avons pas l’espace de
penser”.) Sách đã dẫn, trang 209.
[iv] Hồ Chí Minh với bút danh DX
viết trong bài “Thường thức chính trị”, Nxb Sự Thật, 1954, in lại trong Chủ
tịch Hồ Chí Minh với Công cuộc Xây dựng và Bảo vệ Tổ quốc, Nxb Công an Nhân
dân, 2002, trang 115.
---------------------------------------------
No comments:
Post a Comment