Trần
Ngọc Cư
dịch
26-9-2012
Văn
kiện tháng Giêng 2012 của Lầu năm góc về Chỉ đạo Chiến lược (Strategic
Guidance), nhan đề “Duy trì vị trí lãnh đạo toàn cầu: Những ưu tiên cho Thế kỷ
XXI”, đã khai mạc một cuộc chiến tranh lạnh mới tại khu vực châu Á – Thái Bình
Dương giữa Mỹ và Trung Quốc. Văn kiện này khẳng định rằng Mỹ nhất thiết sẽ tái
quân bình lực lượng, hay “xoay trục chiến lược” hướng về khu vực châu Á – Thái
Bình Đương. Mục tiêu của tái quân bình là “vị trí lãnh đạo toàn cầu” của Mỹ ,
một mỹ từ của đế quốc, được duy trì bằng ưu thế quân sự.
Quan
hệ Ấn-Mỹ
Văn
kiện này dành một vị trí nổi bật cho Ấn Độ trong chiến lược của Mỹ, một điều
gây ngạc nhiên cho nhiều nhà quan sát thời sự. Trong khi một mình Ấn Độ được rõ
ràng nói đến như một đối tác chiến lược, thì các đồng minh lâu đời như Nhật
Bản,Australia, và Nam Hàn được gộp chung dưới từ ngữ “những đồng minh hiện
hữu”. Trong chuyến thăm viếng Ấn Độ lần đầu tiên, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon
Panetta còn cường điệu, gọi sự hợp tác quốc phòng với Ấn Độ là “then chốt trong
chiến lược của Mỹ” tại châu Á.
Trong
cái tạm gọi là chính sách ngoại giao dựa trên bản đồ (cartographic diplomacy),
Mỹ muốn chứng minh rằng có một sự hợp lưu địa chiến lược và thậm chí cả lãnh
thổ giữa Mỹ và Ấn Độ ở trong khu vực này. Văn kiện Chỉ đạo Chiến lược tháng
Giêng, chẳng hạn, cụ thể nói đến “vòng cung chạy từ Tây Thái Bình Dương và Đông
Á xuống Ấn Độ Dương và Nam Á”. Trong một bài báo đăng trên Foreign Policy
tháng 11 năm 2011, Bộ trưởng Ngoại giao Hillary Clinton định nghĩa châu Á –
Thái Bình Dương là khu vực chạy dài “từ tiểu lục địa Ấn Độ đến bờ Tây của châu
Mỹ và Mỹ La tinh. Khu vực trải rộng trên hai đại dương – Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương – ngày càng được nối liền bằng hàng hải và chiến lược”. Điều đáng lưu
ý ở đây là việc sáp nhập Nam Á trong địa bàn của chiến lược xoay trục qua châu
Á – Thái Bình Dương của Mỹ. Từ lâu Nam Á thường được coi là một tiểu khu vực
chiến lược riêng biệt của châu Á, một vùng Mỹ rõ ràng có ý định đưa vào trong
chiến lược của mình đối với một châu lục rộng lớn hơn.
Mỹ
đã và đang thúc đẩy Ấn Độ đi từ chính sách “Nhìn về phía Đông” (Look East) sang
một chính sách “Hành động ở phía Đông” (Act East).Washingtonmong muốn Ấn Độ đi
xa hơn việc thiết lập các quan hệ song phương với các nước ở trong khu vực và
sẽ tham gia vào các vấn đề quan trọng của những nước này. Mỹ tin tưởng đây là
điều thiết yếu để đưa khu vực châu Á – Thái Bình Dương vào dưới chiếc dù của
Mỹ.
Tiến
tới một liên minh quân sự
Mặc
dù Ấn Độ đã trợ giúp Mỹ tạiAfghanistanvà tiếp tục hợp tác quốc phòng trên các
mặt trận khác, nhưng hai nước chỉ mới hoạt động trong một khuôn khổ chính thức
kể từ năm 2005. Một hiệp định ký kết vào năm đó tuyên bố rằng hai nước đang
tiến vào một kỷ nguyên mới và chuyển đổi mối quan hệ giữa hai quốc gia để phản
ánh “những nguyên tắc chung và những lợi ích quốc gia mà hai bên cùng chia sẻ”.
Hiệp định này nhấn mạnh rằng quan hệ quốc phòng giữa hai nước là thành tố quan
trọng nhất trong một quan hệ đối tác chiến lược rộng lớn hơn, kéo theo các cuộc
diễn tập quân sự hỗn hợp, các trao đổi, các hoạt động [quân sự] đa quốc. Thành
tố quan trọng là việc nới rộng “các công tác quốc phòng, mà tự thân chúng không
phải là cứu cánh nhưng chỉ là một phương tiện để củng cố an ninh của chúng ta,
tăng cường quan hệ đối tác chiến lược của chúng ta, [và] thể hiện những tương
tác to lớn hơn giữa các giới chức quốc phòng của chúng ta”.
Từ
khi bắt đầu giai đọan mới này, rõ ràng là Mỹ muốn có một liên minh quân sự. Đại
sứ Robert D. Blackwill, vào cuối nhiệm kỳ của ông tại New Delhi tháng Năm 2003,
đã nói rằng mục tiêu chiến lược sau cùng là có được một quân đội Ấn Độ đủ khả
năng hoạt động hữu hiệu bên cạnh quân đội Mỹ trong các cuộc hành quân hỗn hợp
tương lai.
Khuôn
khổ này đã làm cơ sở cho hợp đồng hạt nhân giữa Ấn Độ và Mỹ, một hiệp định nhìn
nhận trên thực tế Ấn Độ là một quốc gia có vũ khí hạt nhân (a nuclear-armed
state), được công bố chỉ vài tuần sau đó. Một loạt các hiệp định liên quan đến
quốc phòng đã tiếp diễn vào năm 2007.
Mặc
dù ở giai đoạn này Ấn Độ vẫn chưa muốn ký kết những hiệp định quốc phòng đang
chờ đợi, những hiệp định có thể bị giải thích là mở cửa cho một liên minh quân
sự chính thức với Mỹ, nhưng đã có tiến bộ đáng kể về các thương vụ vũ khí
Mỹ-Ấn. Mỹ đã thu tóm được nhiều hợp đồng vũ khí với Ấn Độ nhất – trị giá khoảng
8 tỉ đôla trong 5 năm qua – mặc dù những điều kiện Mỹ đưa ra để theo dõi việc
sử dụng sau cùng các loại vũ khí này là nghiêm ngặt và có tính cách xâm lo.
Trên cơ bản, Ấn Độ đã tái định hướng việc thu mua các phương tiện quốc phòng,
dần dần giảm bớt sự lệ thuộc từ lâu vào Nga. Thật vậy, gần một nửa trị giá tất
cả các hợp đồng quốc phòng Ấn trong những năm gần đây là những thương vụ với
chỉ một mình Mỹ.
Hợp
tác hải quân
Ngoài
các thương vụ vũ khí đang phát triển nhanh chóng ra, Ấn Độ và Mỹ còn tiến hành
hơn 50 cuộc thao diễn quân sự hỗn hợp trong 7 năm qua. So với sự kiện này, các
cuộc thao diễn của Ấn Độ với các nước khác có vẻ chỉ là chiếu lệ.
Những
quan hệ giữa hai quân đội đã đặc biệt làm sâu sắc thêm lãnh vực hợp tác hải
quân. Hải quân Mỹ và hải quân Ấn Độ đã hợp tác hoạt động trong bốn cơ hội riêng
biệt: trong Eo biển Malacca sau vụ 9/11 [vụ tấn công khủng bố 11 tháng 9 năm
2001 tại Mỹ], trong những nỗ lực cứu trợ sau nạn sóng thần ở Ấn Độ Dương năm
2004-2005, trong một cuộc hành quân sơ tán phi chiến đấu (non-combative
evacuation operation) năm 2006 tại Lebanon, và những cuộc hành quân chống hải
tặc trong Vịnh Aden kể từ 2008.
Tháng
Chạp năm 2001, hai nước đã đạt được một hiệp định về hợp tác hải quân nhằm đảm
bảo những tuyến đường biển giữa Kênh đàoSuezvà Eo biển Malacca còn được gọi là
“những điểm tắc nghẽn” (chokepoints). Khi Mỹ đổ quân vào Afghanistan, Ấn Độ đã
cung cấp tàu hải quân của mình để bảo vệ các tàu phi chiến đấu (non-combatant
ships) và các thương thuyền Mỹ đi qua Eo biển Malacca, việc này đã cho phép các
tàu hải quân Mỹ được rảnh tay để hoạt động ngoài khơi Pakistan. Hành động này
đã đượcWashingtoncông khai ghi nhận như một đóng góp của Ấn Độ vào “cuộc chiến
chống khủng bố”.
Ấn
Độ còn là một trong những nước hiếm hoi gia nhập vào “nhóm nòng cốt”
đượcWashingtonthiết lập tiếp theo sau nạn sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004-20054.
“Nhóm nòng cốt” này thực sự là một kế hoạch của Lầu năm góc để thẩm định những
ngụ ý địa chiến lược của trận tsunami và để nắm giữ đường tiếp cận của Mỹ vào
những vùng mà trước đó Mỹ không được phép bén mảng. Nhóm nòng cốt này đã phải
giải tán vì những chỉ trích gay gắt từ Liên Hiệp Quốc và từ các nước châu Âu
trong đó có Pháp.
Nhưng
Ấn Độ rõ ràng không phải là quốc gia Nam Á duy nhất được Mỹ ve vãn. Tờ Times
of India (Thời báo Ấn Độ) vào tháng Sáu đã tường thuật rằngWashington đang
ở trong tiến trình mở một căn cứ hải quân tại Chittagon, Bangladesh. “Lo sợ vì
sự hiện diện ngày một gia tăng của các căn cứ hải quân Trung Quốc tại biển Nam
Trung Hoa [biển Đông Việt Nam]”, tờ báo đưa tin “Mỹ đang tìm kiếm một chiến
lược quân bình lực lượng [với Trung Quốc] khi có tham vọng duy trì sự hiện diện
của mình khắp châu Á – từ Nhật Bản đến căn cứ Diego Garcia trong Ấn Độ Dương”. Chính
phủ Bangladesh bác bỏ bài báo nói trên, nhưng nếu bản tin này là đúng sự thật,
nó có thể mang ý nghĩa tiêu cực cho chiến lược an ninh của Ấn Độ và cho sự hợp
tác hải quân Mỹ-Ấn. Tuy nhiên, một nỗ lực như thế là phù hợp với việc
Washington đang tìm kiếm thêm cơ sở thiết bị hải quân (naval facilities) trong
khu vực này.
Những
vấn đề trong khu vực
Mặc
dù các quan chức chính quyền Obama thường nói rằng cái gọi là “xoay trục chiến
lược” không nhắm vào bất cứ một quốc gia đặc biệt nào, nhưng văn kiện Chỉ đạo Chiến
lược nhìn nhận rằng ít ra nó có liên quan phần nào đến thanh thế ngày càng gia
tăng của Trung Quốc. Vừa bằng lòng vì đã vận dụng được công nghệ quân sự của
Mỹ, nhưng vừa e ngại có thể gây căng thẳng với một nước từng thù nghịch với
mình, Ấn Độ tỏ ra thận trọng, không dám liên kết quá gần gũi với Mỹ để chống
lại Trung Quốc – và đây cũng là điều dễ hiểu.
Đấy
là lý do tại sao, khi trả lời những đề nghị của Panetta, Bộ trưởng Quốc phòng
Ấn A.K. Antony đã nhấn mạnh “nhu cầu phải củng cố cấu trúc an ninh đa phương
tại châu Á và đi đến một tiến độ mà mọi nước liên hệ đều cảm thấy thoải mái”.
Người ta không thể không nhận thấy rằng, đúng vào những ngày Panetta có mặt tại
New Delhi, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ S.M. Chrishna cũng có mặt tại Trung Quốc,
lên tiếng khẳng định quan hệ song phương Trung-Ấn là một ưu tiên trong chính
sách đối ngoại của Ấn Độ và bảy tỏ nguyện vọng là Ấn Độ muốn mở rộng hợp tác
chiến lược với Trung Quốc. Tương tự như thế, nhiều tuyên bố đã xuất hiện, trong
đó các lãnh đạo Mỹ và Trung Quốc cũng rêu rao họ cam kết hợp tác trên vấn đề an
ninh tại Nam Á.
Ấn
Độ đang có một loạt vấn đề với Trung Quốc tại Nam Á. Những vấn đề này gồm có
những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ngày càng gay gắt trên những phần đất
thuộc lãnh thổ Ấn Độ, sự thiếu tiến bộ trong các cuộc đàm phám về biên giới
giữa hai nước, việc Trung Quốc có liên hệ hạt nhân với Pakistan, và việc Trung
Quốc ủng hộ lập trường của Pakistan về vấn đề Kashmir. Mỹ đã giữ thái độ im
lặng về các vấn đề trên vì thế đã tạo cảm tưởng, dù gián tiếp, rằng Mỹ ủng hộ
lập trường của Trung Quốc.
Trong
bối cảnh này, nhiều người chỉ muốn Ấn Độ duy trì lập trường phi liên kết trong
cuộc chiến tranh lạnh mới mẻ này. Nhưng người ta nhận thấy chính quyền Ấn muốn
chống lại ý kiến vừa nói. Mặc dù Ấn Độ có thể không muốn bị coi như một “cái
chốt” trong trục xoay chiến lược của Mỹ, nhưng giới lãnh đạo hiện nay muốn trấn
an Mỹ rằng Ấn Độ hậu thuẫn một cách rộng rãi các chính sách đối ngoại của Mỹ,
kể cả trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
N.K.
Ninan
Koshy là cộng tác viên trong mục Foreign Policy in Focus
Dịch
giả gửi trực tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment