Robert D. Kaplan
The Atlantic Magazine
neofob, x–cafevn.org, chuyển
ngữ
Sun, 06/03/2012 - 13:22
Một cựu
thù đã trở thành một đồng minh quyết định trong việc cân bằng sự đi lên của
Trung Quốc ra sao
Ấn tượng về Hà
Nội quả là đáng suy nghĩ. Những gì thủ đô của Việt Nam bắt chợt trong một khung
ảnh tĩnh lặng tự thân là một quá trình diễn biến lịch sử — không gần như có vẻ
là định mệnh, được định đoạt theo địa lý theo nhịp trống dồn của những triều
đại và những cướp bóc nhưng như thể là một sự tổng hợp của những hành động quả
cảm cá nhân và những toan tính nát óc. Ở Nhà bảo tàng Lịch sử của thành phố,
những bản đồ, sa bàn, những bia xám khổng lồ tưởng nhớ những cuộc kháng chiến
của người Việt chống lại các đế quốc Tống, Minh, và Thanh vào thế kỷ thứ 11,
15, và 18. Cho dù Việt đã được sát nhập vào Trung Quốc cho đến thế kỷ thứ 10,
bản sắc chính trị của nó riêng rẽ so với Trung Quốc kể từ đó là điều thần kỳ —
một thứ mà không một lý thuyết nào của quá khứ có thể giải thích thỏa đáng.
Tất nhiên là sự
huyền thoại lịch sử của Việt Nam có phần nhấn mạnh về điều đó. Sự thâm trầm và
hỗn loạn của Đền Ngọc Sơn (tưởng niệm việc đánh bại nhà Nguyên vào thế kỷ thứ
13), bộ mặt tượng Phật bằng đồng được bao phủ bởi nhang, vàng lá, và gỗ đỏ và
được bao quanh bởi Hồ Hoàn Kiếm xanh như súp đậu và bờ hồ rợp bóng cây, tạo
thành sự chuẩn bị tinh thần cho một lăng tẩm khắc khổ hơn của Hồ Chí Minh. Hồ,
một trong những người đàn ông vĩ đại nhỏ bé của thế kỷ 20, đã hòa trộn chủ
nghĩa Mác, chủ nghĩa Khổng, và chủ nghĩa quốc tế thành một vũ khí chống người
Trung Quốc, người Pháp, và người Mỹ, đặt nền móng cho những cuộc kháng chiến
chống lại ba đế quốc của thế giới. Lăng của ông ta mang dáng dấp của những tòa
nhà Châu Âu cổ xưa hàng thế kỷ và những nhà thờ mà chúng từng là trung tâm đầu
não của Đông Dương — một hệ thống không chắc chắn mà Paris ngoan cố kéo dài sau
Thế chiến Thứ Hai, buộc phải giao tranh với người Việt để dẫn đến sự thảm bại nhục
nhã ở Trận chiến Điện Biên Phủ 1954.
Ngoài những công
trình xây dựng này thì còn có những vật lộn hùng tráng mới nhất của thành phố
đối với số mệnh: khu thương mại sầm uất và sôi động với hàng đoàn xe gắn máy —
người lái xe gởi tin nhắn trên cellphone khi bị kẹt xe — và những mặt tiền mới
nhất lấn át những cửa hàng to lớn lộn xộn và nhếch nhác. Đây là trước khi có
cửa hàng loạt của chủ nghĩa tư bản với quán cà phê khắp nơi, mỗi quán là một
phong cách và thiết kế khác nhau, có cà phê có lẽ ngon nhất thế giới và không
có bảng hiệu của Starbuck. Cho dù có bề dày lịch sử, Hà Nội không phải là viện
bảo tàng ngoài trời như những thành phố tuyệt vời của Châu Âu. Nó vẫn đang lọng
cọng trong quá trình tiến đến chuyện đó — gần giống như sự hỗn loạn nhếch nhác
của Ấn Độ hơn là sự sạch sẽ đến lạ lùng của Singapore.
Người Việt Nam
đang dò dẫm vào thế giới những nước phát triển — vì lợi ích của chính họ và gia
đình của họ, rõ là vậy, thế nhưng họ cũng bảo vệ sự độc lập của họ đối với một
Trung Quốc năng động tương đương như vậy. Và nó đã từng như thế từ thời cổ đại.
Hà Nội luôn là một thành phố của những toan tính chính trị căng thẳng, cái giá
phải trả cho ở vị thế một cường quốc hạng trung — nước đông dân thứ 13 trên thế
giới — với bờ biển dài ở giao lộ của những tuyến đường hàng hải chính và gần
với những mỏ dầu ngoài khơi. Khi tôi đến thăm Việt Nam vào năm ngoái, tôi nhận
thấy một đất nước bị kẹt không chỉ với những mục tiêu phát triển kinh tế mà còn
với những thách thức của việc tìm kiếm một cách sống với anh láng giềng lâu đời
và sự bá quyền — một thách thức mà nó ngày càng trông ngóng vào Hoa Kỳ, một
thời là kẻ thù, để giúp đỡ đối phó.
Điều đó có thể
đòi hỏi rằng người Hoa Kỳ, ít ra là thế, chuyển đổi quan điểm lịch sử của họ và
thử nhìn thế giới qua con mắt của người Việt Nam. Ngô Quang Xuân, phó chủ tịch
Ủy ban Đối Ngoại của Quốc Hội, nói với tôi rằng năm bước ngoặt đối với Việt Nam
đương đại không phải là năm 1975, khi mà Nam Việt Nam bị tràn ngập bởi Cộng Sản
Bắc Việt, mà là năm 1995 khi mà quan hệ được bình thường hóa với Hoa Kỳ và Việt
Nam gia nhập ASEAN và ký một hiệp định “cơ cấu tổ chức” với Liên Minh
Châu Âu. “Chúng tôi gia nhập thế giới”, Xuân thừa nhận rằng trước khi
đưa ra những quyết định này, “chúng tôi đã có nhiều thảo luận gay gắt giữa
chúng tôi.”Sự thực là cho dù những chiến thắng liên tục của họ đối với Pháp
và Hoa Kỳ, những người Việt Cộng, theo như những quan chức của họ giải thích
cho tôi hay trong những loạt đối thoại trong nhiều tuần, cảm thấy liên tục bị
sỉ nhục bởi những sự kiện tiếp diễn sau đó.
Hãy xét đến
chuyện này: Việt Nam đã xâm lược Cambodia vào năm 1978, giải phóng đất nước đó
khỏi sự diệt chủng điên cuồng của chính quyền Khmer Đỏ của Pol Pot. Cho dù cuộc
xâm lăng là một hành động của thực tế lạnh lùng để gạt bỏ mối đe dọa chiến lược
đặt ra bởi chính quyền Khmer Đỏ thân Trung Quốc, nó đã có một kết quả nhân đạo
rõ ràng sâu đậm và to lớn. Cho dù vậy, đối với hành động nhân đạo then chốt
này, Việt Nam thân Sô Viết đã bị cấm vận bởi liên minh của Trung Quốc kể cả Hoa
Kỳ mà kể từ chuyến đi của Tổng thống Nixon đến Trung Quốc năm 1972 đã ngả về
phía Bắc Kinh. Vào năm 1979, chính Trung Quốc xâm lược Việt Nam để ngăn Việt
Nam khỏi hành quân xuyên qua Cambodia đến Thái Lan. Trong khi đó Liên Bang Sô
Viết đã chẳng bao giờ chi viện cho chư hầu của nó. Việt Nam lúc đó bị cô lập về
mặt ngoại giao, bị sa lầy ở Cambodia và chìm trong đói nghèo, chủ yếu là do hậu
quả của chủ nghĩa quân phiệt của nó. Các nhà lãnh đạo Việt Nam của thập niên
70, thủ tướng Lý Quang Diệu của Singapore lúc bấy giờ viết trong hồi ký của ông
năm 2000, là “quá quắt”, là tự hào là “những người Phổ của Đông Nam
Á.”Thế nhưng sự kiêu ngạo, như những nhà lãnh đạo Việt Nam đã nói với tôi,
đã không kéo dài. Thiếu hụt lương thực nghiêm trọng và sự sụp đổ của đế chế Sô
Viết vào những năm 1989–91 đã buộc Việt Nam rút quân khỏi Cambodia. Việt Nam
lúc này lạc lõng không bạn, chiến thắng của nó với Hoa Kỳ là một ký ức xa vời. “Cảm
giác chiến thắng của cuộc chiến đó luôn bị nghẹn lại,” một nhà ngoại giao
Việt Nam cho tôi hay, “bởi vì đã chẳng có thành quả nào của hòa bình.”
“Người Việt Nam
không có bóng ma ám ảnh của cuộc chiến chống Mỹ vào thập niên 60 và 70,” một nhà ngoại giao phương Tây cho
tôi hay. “Đúng hơn là một thế hệ nào đó của Hoa Kỳ bị đắm chìm với thời
gian.”Người Việt Nam vẫn chưa quên rằng 20 phần trăm đất nước của họ là
không ở được là do bom đạn chưa nổ của Hoa Kỳ; hoặc là bởi vì chất khai hoang
Da Cam, sẽ chẳng có gì sẽ mọc lại trong nhiều phần đất đáng kể. Thế nhưng ba
phần tư của tất cả dân Việt Nam là được sinh sau “Chiến Tranh chống Mỹ”,
theo cách gọi của họ để phân biệt với những cuộc chiến tranh khác trước đó và
sau đó cho dù phần lớn không có ký ức gì về nó. Những sinh viên và các quan
chức trẻ mà tôi gặp ở Học viện Ngoại giao của Việt Nam, một chi nhánh của Bộ
Ngoại Giao, xa cách về thời gian đối với Chiến Tranh Chống Mỹ còn hơn Baby
Boomers đối với Thế Chiến Thứ Hai.
Một lý do khác
người Việt Nam tương đối có ít nhạy cảm về Chiến Tranh chống Mỹ là họ đã chiến
thắng. Trong một cuộc họp nhỏ với tôi ở Học Viện Ngoại Giao với tượng ông Hồ
trong phòng, các sinh viên và quan chức nói với tôi rằng họ đã có lúc phê phán
Hoa Kỳ nhưng với những lý do chẳng dính dáng gì đến cuộc chiến. Họ đã lấy làm
lo ngại rằng Hoa Kỳ đã không can thiệp chống lại Trung Quốc vào thập niên 90
khi Bắc Kinh thách thức chủ quyền của Philippines của Mischief Reef (Đá Vành
Khăn — ND), một phần của Quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Một sinh viên tóm tắt
rằng “Sức mạnh Hoa Kỳ là cần thiết cho nền an ninh của thế giới.”Dĩ
nhiên là hết người này đến người khác, các sinh viên và các quan chức ở Học
Viện Ngoại Giao dùng cụm từ cân bằng quyền lực để mô tả Hoa Kỳ đối trọng
với Trung Quốc. “Người Trung Quốc quá mạnh quá quả quyết” một chuyên
viên phân tích nữ nói. “Đó là tại sao một Pax Sinica là rất đe dọa đối với
chúng tôi.”
Trái với Hoa Kỳ
đã từng là phần nhỏ đối với người Việt Nam trong quá khứ, Trung Quốc luôn là
chính yếu. “Sử chính thống của Việt Nam tràn ngập nhấn mạnh về chống ngoại
xâm, hầu hết luôn là chống Trung Quốc,” Robert Templer viết trong một quyển
sách mở đường 1998 về Việt Nam đương đại, Shadows and Wind. “Nỗi lo
sợ bị đô hộ là thường trực và không phân biệt lý tưởng, nó đã tạo ra sự khắc
khoải khôn nguôi và sự tự vệ về bản sắc Việt Nam.”Như một nhà ngoại giao
Việt Nam nói với tôi: “Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam 17 lần. Hoa Kỳ xâm
lược Mexico chỉ một lần và người Mexico nhạy cảm về chuyện đó ra sao. Chúng tôi
lớn lên với các sách giáo khoa đầy những câu chuyện về những anh hùng dân tộc
đánh Trung Quốc.”Nỗi lo sợ của người Việt đối với Trung Quốc là sâu đậm
chính vì Việt Nam không thể thoát khỏi gọng kềm của của anh hàng xóm khổng lồ
phương bắc với dân số gấp 15 lần. Người Việt biết rằng địa lý quyết định mối
quan hệ của họ: họ có thể thắng trên chiến trường nhưng họ luôn phải đi triều
cống Bắc Kinh. Hoàn cảnh như vậy quả là xa lạ đối với một quốc gia gần như quốc
đảo như Hoa Kỳ.
Việt Nam khởi
đầu là một tiền đồn phương nam của văn hóa Trung Quốc. Nó bị sáp nhập vào Đế
chế Hán Trung Hoa vào năm 111 TCN. Kể từ đó trở đi, nó bị chiếm đóng bởi Trung
Quốc hoặc bị ách chư hầu triều cống hầu như gần một ngàn năm. Sau đó những
triều đại Việt Nam như Lý, Trần, và Lê là vĩ đại vì họ chống trả lại sự thống
trị của Trung Quốc từ phương Bắc, đẩy lùi hàng đoàn quân đông hơn gấp bội. “Đóng
góp của Trung Quốc đối với Việt Nam bao trùm đủ mọi khía cạnh của văn hóa, xã
hội, và chính phủ, từ đôi đũa dùng bởi nông dân cho đến ngòi bút lông dùng bởi
các ông đồ và ông quan,” Keith Weller Taylor của Đại học Cornell viết trong
Sự Khai Sinh của Việt Nam (1983). Tất nhiên là văn học Việt Nam đã được “thấm
nhiễm” với di sản cổ điển của Trung Quốc: tiếng Hán đã từng là ngôn ngữ của
học giả ở Việt Nam cũng như Latin ở Châu Âu. Qua bao thăng trầm của lịch sử,
văn hóa của nông dân Việt Nam vẫn giữ được nét riêng của nó có phần nhiều hơn
là văn hóa của giới tinh hoa Việt Nam. Trong giới tinh hoa, theo như chuyên gia
Victor Lieberman về Đông Nam Á của Đại học Michigan giải thích, những quy tắc
hành chánh của Trung Quốc đã được “hình thành đến mức mà nguồn gốc ngoại lai
của nó trở nên vô nghĩa”. Ước muốn mãnh liệt của tất cả người Việt được
tách biệt khỏi Trung Quốc đã được củng cố bởi sự tiếp xúc của họ với người Chàm
và Khmer ở phương nam. Những người này đã bị ảnh hưởng bởi những nền văn minh
không phải Trung Hoa, đặc biệt là văn minh Ấn Độ. Do sự tương đồng sâu đậm với
người Trung Quốc, người Việt bị đắm chìm bởi việc tự mãn với những nét khác
biệt nhỏ nhặt và điều này làm những sự kiện trong quá khứ càng rõ nét đối với
họ.
Những chiến
thắng của Việt Nam chống Trung Quốc và đối với người Chàm và người Khmer ở miền
nam đã tạo thành một bản sắc dân tộc riêng biệt — một quá trình được khuyến
khích bởi sự bất lực của Trung Quốc, cho đến thời hiện đại, để yên Việt Nam.
Vào năm 1946, Trung Quốc thông đồng với Pháp để quân đội Trung Quốc chiếm đóng
ở miền bắc Việt Nam thay thế bằng quân đội Pháp. Lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu
Bình “chưa bao giờ mất lòng căm thù tận xương tủy đối với người Việt”,
Templer viết như vậy. Ngoài việc đưa 100 000 quân Trung Quốc vào Việt Nam năm
1979, Đặng đặt ra một chính sách “làm khánh kiệt Hà Nội” bằng cách tròng
Việt Nam vào một cuộc chiến tranh du kích ở Cambodia.
Thế nhưng bây
giờ thì những vấn đề của biên giới trên đất liền mà dẫn đến những cuộc chiến đó
phần lớn được giải quyết. Cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia phần lớn ở Châu Á
đã chuyển qua lãnh vực hàng hải chủ yếu là ở Biển Đông. Với gần 2000 dặm Anh bờ
biển tạo thành bờ tây của Biển Đông, Việt Nam chợt nhận ra rằng họ ở tâm điểm
của một tấn kịch sử địa mà có thể sẽ là tương đương về mức độ sử thi của những
cuộc chiến trên đất liền của cuối thế kỷ 20. Biển Đông kết nối Ấn Độ Dương với
phía tây của Thái Bình Dương, nối liền những tuyến đường hàng hải toàn cầu qua
những eo biển Malacca, Sunda, Lombok, và Makassar. Những nút cổ chai này giám
sát tuyến đường của hơn nửa hàng hóa thương mại của cả thế giới và một phần ba
của tất cả giao thông đường biển toàn cầu. Dầu hỏa được vận chuyển qua Eo biển
Malacca từ Ấn Độ Dương, đi đến Đông Á bằng con đường Biển Đông, là gấp ba lần
so với lượng dầu đi qua Kênh đào Suez và 15 lần so với Kênh đào Panama. Khoảng
hai phần ba nguồn cung cấp năng lượng của Nam Triều Tiên, khoảng 60 phần trăm
của Nhật Bản và Đài Loan , và khoảng 80 phần trăm dầu thô nhập khẩu của Trung
Quốc đi qua Biển Đông. Vùng biển cũng có trữ lượng dầu đã được xác thực 7 tỷ
thùng và ước tính khoảng 900 ngàn tỷ bộ Anh vuông khí đốt. Nếu những tính toán
của người Trung Quốc rằng Biển Đông sẽ cho trữ lượng 130 tỷ thùng dầu là đúng
thì Biển Đông chứa nhiều dầu hơn bất cứ vùng nào tre6n thế giới ngoại trừ Saudi
Arabia.
Biển Đông có hơn
200 đảo nhỏ, bãi đá, và bãi san hô — chỉ khoảng ba chục trong số này là luôn ở
trên mặt nước — là mục tiêu của những tranh chấp lãnh thổ ngày càng mang tính
địa chiến lược dữ dội và bí ẩn. Brunei tuyên bố chủ quyền một bãi san hô phía
nam của quần đảo Trường Sa. Malaysia tuyên bố chủ quyền ba đảo ở quần đảo
Trường Sa. Philippines tuyên bố chủ quyền tám hòn đảo ở quần đảo Trường Sa và
những phần đáng kể ở Biển Đông. Thế nhưng Đài Loan, Trung Quốc, và sau cùng là
Việt Nam mỗi nước tuyên bố chủ quyền tất cả hoặc hầu hết Biển Đông cũng như tất
cả nhóm quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Vào giữa năm 2010, Trung Quốc tạo ra
một khuấy động khi họ gọi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”. Sự việc thật
ra là các quan chức Trung Quốc không hẳn nói như vậy; không thành vấn đề. Bắc
Kinh tuyên bố chủ quyền vùng bên trong cái mà họ gọi là “đường lịch sử”
và vạch trên bản đồ với chín đường; một vòng tròn lớn gọi là “đường lưỡi bò”
hoàn toàn bao phủ các nhóm quần đảo từ phía nam cách 1200 dặm Anh đảo Hải Nam
của Trung Quốc cho đến gần Singapore và Malaysia — đó là trung tâm của toàn bộ
Biển Đông Nam Á. Kết cục của việc tuyên bố chủ quyền bành trướng này là tất cả
những quốc gia có bờ biển tiếp giáp quay lại chống Trung Quốc dù muốn hay
không. Họ cũng ngày càng ngả về Hoa Kỳ để tìm kiếm hậu thuẫn ngoại giao và quân
sự.
“Những vấn đề
biên giới đất liền không còn quan trọng so với vấn đề Biển Đông đối với chúng
tôi”, Nguyễn Duy
Chiến nói, phó chủ tịch Ủy ban Biên Giới Quốc Gia. Khi chúng tôi gặp ở văn
phòng đơn sơ và nhỏ bé, Chiến trong trang phục nâu xám tiếp đãi tôi với phong
cách Việt Nam làm tôi nhớ đến ấn tượng của nhà chính trị Lý Quang Diệu của thập
niên 70 về phong cách lãnh đạo của người Việt Nam là cực kỳ nghiêm nghị và “Khổng
giáo”. Buổi họp bắt đầu và kết thúc đúng giờ và Chiến cung cấp không ngừng
các chi tiết trong trình bày PowerPoint công kích quan điểm của Trung Quốc từ
mọi góc nhìn khác nhau có thể.
Một phần ba cư
dân của Việt Nam sống dọc theo bờ biển, Chiến nói với tôi, và khu vực [kinh tế]
thủy sản chiếm khoảng 50 phần trăm của GDP cả nước. Việt Nam tuyên bố chủ quyền
một đường 200 hải lý trên thềm lục địa ở Biển Đông (theo cách gọi của người
Việt). Điều này tuân theo vùng đặc quyền kinh tế được định nghĩa bởi Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Biển. Thế nhưng, Chiến công nhận, nó “trùng lắp” với
những vùng biển được tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc và Malaysia và với những
vùng của Cambodia và Thái Lan ở Vịnh Thái Lan kế bên. Chiến giải thích rằng
Việt Nam và Trung Quốc nói chung đã giải quyết những tranh chấp ở Vịnh Bắc Bộ —
Đảo Hải Nam của Trung Quốc ngăn chặn phần lớn bờ biển phía Bắc của Việt Nam ra
đại dương — bằng cách chia vùng vịnh đầy năng lượng làm đôi. Ông nói “Thế
nhưng chúng tôi không thể chấp nhận vùng lưỡi bò,” ý muốn nói là con đường
lịch sử chín vạch ở Biển Đông. “Trung Quốc nói rằng khu vực đang trong tranh
chấp. Chúng tôi nói không. Vùng lưỡi bò vi phạm tuyên bố chủ quyền của năm
nước.”
Sau đó Chiến cho
tôi xem một loạt các bản đồ trên máy tính của ông và kể lại một câu chuyện lịch
sử lâu đời. “Khi các hoàng đế nhà Minh chiếm đóng Việt Nam trong thế kỷ 15,
họ đã không chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nếu những quần đảo này
thuộc về Trung Quốc, tại sao những hoàng đế nhà Minh đã không vẽ chúng trong
các bản đồ của họ?” ông hỏi. “Vào đầu thế kỷ 20, tại sao các bản đồ của
nhà Thanh bỏ qua quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nếu chúng thuộc về Trung Quốc?”Vào
năm 1933, Pháp đã đưa quân ra quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ông ta nói với tôi,
ngụ ý rằng bởi vì quần đảo là một phần của Đông Dương thuộc Pháp, bây giờ chúng
thuộc về Việt Nam. Ông thêm rằng vào năm 1956 và 1988, Trung Quốc đã sử dụng “vũ
lực” để chiếm giữ những bãi cạn ở Hoàng Sa. Cuối cùng ông trình chiếu một
slide của nhà thờ Santa Maria del Monte ở Ý hình chụp của một bản thảo từ năm
1850 với một trang rưỡi giải thích quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam ra sao.
Nỗi đam mê của ông ta với những chi tiết như vậy có mục đích: một bản đồ khác
trên trình chiếu PowerPoint cho thấy phần lớn của Biển Đông, kể cả quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được chia thành nhiều lô nhỏ để khai thác dầu mà
Việt Nam có thể khoán trong tương lai cho các công ty quốc tế.
Người Việt nói
với tôi nhiều lần là Biển Đông có tầm quan trọng hơn chỉ là một hệ thống của
những tranh chấp lãnh thổ: nó là giao lộ của thương mại hàng hải quốc tế, có
tính sống còn đối với nhu cầu năng lượng của Nam Triều Tiên và Nhật Bản và là
nơi mà Trung Quốc có thể một ngày nào đó kiểm soát quyền lực của Hoa Kỳ ở Châu
Á. Việt Nam thật sự nằm ở trung tâm lịch sử và văn hóa của cái mà các nhà hoạch
định chính sách của chính quyền Obama và những người khác ngày càng gọi là “Ấn–Thái
Bình Dương” — Ấn Độ và Đông Á.
Không có gì bằng
để diễn tả tham vọng của Việt Nam trở thành một người tham gia chính ở khu vực
hơn là việc mua sắm sáu tàu ngầm hàng đầu lớp Kilo từ Nga. Một chuyên gia quốc
phòng phương Tây ở Hà Nội nói với tôi rằng việc mua sắm chẳng có hợp lý tý nào
cả: “Sẽ có một cú sốc giá cả cho người Việt khi họ nhận ra rằng nó tốn tiền
như thế nào để đơn thuần bảo trì những tàu ngầm này.”Quan trọng hơn cả,
chuyên gia cho hay, người Việt sẽ phải huấn luyện thủy thủ để sử dụng chúng —
một việc làm mất cả thế hệ. “Để chống tàu ngầm Trung Quốc,” chuyên gia
cho hay, “họ sẽ được lợi hơn nếu họ tập trung vào chiến tranh chống tàu ngầm
và phòng thủ duyên hải.”Rõ ràng là người Việt mua những tàu ngầm này là
những món hàng sĩ diện để nói Chúng tôi không đùa.
Giao dịch hàng
tỷ đô với Nga cho những tàu ngầm bao gồm 200 triệu đô cho tân trang Vịnh Cam
Ranh — một trong những chỗ neo tàu nước sâu tốt nhất ở Đông Nam Á, nằm sát
những tuyến hàng hải ở Biển Đông, và là một căn cứ hoạt động chính cho quân đội
Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Người Việt đã nói rằng mục tiêu của họ là để
Vịnh Cam Ranh dùng cho hải quân ngoại quốc. Ian Storey, một thành viên của Viện
Đông Nam Á Học ở Singapore, viết rằng một mong muốn không nói ra của Việt Nam
là việc chỉnh trang Vịnh Cam Ranh sẽ “củng cố mối quan hệ quốc phòng với Hoa
Kỳ và cho phép sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở Đông Nam Á như là một đối
trọng với sự đi lên của quyền lực Trung Quốc.” Vịnh Cam Ranh đóng một vai
trò hoàn hảo cho chiến lược của Ngũ Giác Đài “địa điểm chứ không phải cứ
địa,” trong đó tàu và máy bay của Hoa Kỳ có thể thường xuyên ghé thăm những
tiền đồn quân sự của ngoại quốc để sửa chữa và tái tiếp liệu mà không cần những
hiệp ước căn cứ chính thức và nhạy cảm chính trị.
Một sự hợp tác
chiến lược không chính thức giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, trên thực tế, là được
tuyên bố vào tháng Bảy năm 2010 ở một cuộc họp Diễn đàn Khu vực ASEAN ở Hà Nội
khi mà Bộ trưởng Ngoại giao Hillary Clinton nói rằng Hoa Kỳ có “quyền lợi
quốc gia” ở Biển Đông, rằng Hoa Kỳ sẵn sàng tham gia vào những nỗ lực đa
phương để giải quyết những tranh chấp biên giới ở đó, và rằng những tuyên bố
chủ quyền nên dựa trên những đặc trưng đất liền: điều đó có nghĩa là, dựa vào
những mép thềm lục địa, một khái niệm bị vi phạm bởi đường lịch sử của Trung
Quốc. Bộ trưởng Ngoại giao của Trung Quốc Dương Khiết Trì gọi những lời bình
luận của Clinton là “gần như là một tấn công vào Trung Quốc.”Các quan
chức Hoa Kỳ bỏ qua những lời bình luận của Dương. Kể từ đó, chính quyền Obama
đã công bố các kế hoạch để luân chuyển 2500 thủy quân lục chiến ra vào phía bắc
Úc, tuyên bố rằng các cắt giảm ngân sách của Ngũ Giác Đài sẽ không đụng đến
những lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, và đã tuyên bố ý định — những hành
động cho phép — để “xoay chuyển” khỏi Trung Đông và hướng về Thái Bình
Dương. Hoa Kỳ nhìn nhận thế giới như Việt Nam: cảm thấy đe dọa bởi sự lớn mạnh
của sức mạnh Trung Quốc. Sự khác biệt là Hoa Kỳ có nhiều lợi ích địa chính trị,
Việt Nam chỉ có một: đối trọng Trung Quốc.
Thế nhưng Việt
Nam không vì vậy mà ghẻ lạnh Trung Quốc và trong vòng tay của Hoa Kỳ. Việt Nam
quá phụ thuộc và liên kết với Trung Quốc. Trong khi Hoa Kỳ là thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam, Việt Nam nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc nhiều hơn
bất kỳ quốc gia nào khác — bông vải, máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu, đồ điện
tử, da thuộc, và nhiều hàng gia dụng khác. Kinh tế của nơi này đơn giản là
không thể hoạt động nếu không có Trung Quốc, cho dù ngay cả Trung Quốc làm trở
ngại sự phát triển của ngành sản xuất địa phương bằng cách tràn ngập Việt Nam
với sản phẩm rẻ mạt. Hơn nữa các quan chức Việt Nam ghi nhớ sự không cân xứng
về địa lý của vị thế của họ: như họ nói, “Nước xa không cứu được lửa gần.”Sự
gần gũi của Trung Quốc và sự thực là Hoa Kỳ cách nửa vòng trái đất có nghĩa là
người Việt phải đương đầu với những sự sỉ nhục như hủy hoại môi trường của việc
Trung Quốc khai thác mỏ bauxite ở Cao Nguyên Trung Phần trù phú — một dự án mà,
như những dự án khác ở trong nước, mướn công nhân Trung Quốc hơn là công nhân
Việt Nam. “Chúng tôi không thể tái định cư,” Nguyễn Tâm Chiến, cựu thứ
trưởng ngoại giao, nói với tôi. “Về thống kê mà nói thì chúng tôi là một
tỉnh của Trung Quốc.”
Bởi vì Liên Bang
Sô Viết đã không giúp đỡ Việt Nam vào năm 1979, người Việt Nam sẽ không bao giờ
hoàn toàn tin tưởng một cường quốc xa xăm. Ngoài chuyện địa lý ra, người Việt
Nam ở một chừng mực căn bản nào đó không tin tưởng Hoa Kỳ. Một quan chức nói
với tôi đơn giản là Hoa Kỳ đang suy thoái, một tình trạng bị làm cho tồi tệ hơn
bởi việc tiếp tục chú trọng đến Trung Đông của Washington thay vì sự đi lên của
Trung Quốc ở Đông Á — dẫu cho những cam đoan gần đây cho thấy ngược lại. Cho dù
một nhận xét như vậy là chủ quan, dù gì đi nữa nó có thể chính xác. Rồi thì còn
nỗi lo sợ rằng Hoa Kỳ sẽ bán đứng Việt Nam vì mục đích cho một quan hệ nồng ấm
hơn với Trung Quốc: Xuân, nhân viên của ủy ban đối ngoại, đặc biệt đề cập đến
sự mở cửa của Nixon với Trung Quốc là việc tạo ra hoàn cảnh địa chiến lược cho
Trung Quốc xâm lược Việt Nam. “Điều đó có thể xảy ra một lần nữa,” ông
nói với tôi, lắc đầu thất vọng. Một viên chức của chính quyền Cộng sản nói với
tôi, “Chuyện to đoành trong những cuộc nói chuyện với người Hoa Kỳ là dân
chủ và nhân quyền.”Người Việt sống trong nỗi lo sợ rằng áp lực từ Quốc Hội,
truyền thông, và các tổ chức phi chính phủ có thể một ngày nào đó làm White
House bán đứng họ như đã bán đứng những nước Châu Á độc tài: Uzbekistan và
Nepal, ví dụ vậy. “Điều quý nhất phải là sự đoàn kết quốc gia và độc lập,”
Lê Chí Dũng, phó trưởng phòng Bộ Ngoại giao, nói với tôi, cố gắng giải thích
triết lý chính trị của nước ông cho tôi hay. “Đất nước chứ không phải cá
nhân làm anh tự do.”
Tất nhiên là sự
tồn tại của chính quyền Cộng sản trong chủ nghĩa tư bản tràn lan ở Việt Nam có
phần nào được lý giải bởi những nguyên do mang tính quốc gia của Đảng Cộng Sản
Việt Nam. Họ đã lãnh đạo đất nước suốt những cuộc chiến chống Pháp, Mỹ, và
Trung Quốc. Hơn nữa, như Tito ở Yugoslavia và Enver Hoxha Albania, Hồ Chí Minh
là một nhà lãnh đạo nội địa, không bị đặt vào vị trí lãnh đạo bởi một đội quân
xâm lược. Người Việt Cộng đã lợi dụng những sự tương đồng giữa “Tư tưởng Hồ
Chí Minh” và Đạo Khổng về mặt gia đình và chính quyền. “Chủ nghĩa quốc
gia được xây dựng từ Đạo Khổng,” Lê Chí Dũng thuộc Bộ Ngoại Giao nói. Neil
Jamieson, tác giả của Understanding Vietnam (1993), viết rằng “đặc
tính chung của người Việt về sự 'chuyên chế,'” một giả định của “có phần
cơ bản, trật tự đạo đức xác định về thế giới.”Đặc trưng này hệ quả là liên
quan đến ý tưởng chính nghĩa, điều mà có thể dịch thoáng là nghĩa vụ xã
hội đối với gia đình và sự đoàn kết của nhóm.
Có một lý do
khác chủ nghĩa Cộng sản tồn tại ở đây là phần căn bản nhất của nó đang dần biến
mất. Người Việt đang ở tình trạng tương tự như người Trung Quốc: họ bị cai trị
bởi Đảng Cộng sản có đủ thứ ngoại trừ từ bỏ Chủ nghĩa Cộng sản. Họ đã chấp nhận
một khế ước xã hội ngấm ngầm là họ đồng ý sẽ không phản đối quá lớn tiếng chừng
nào đảng còn bảo đảm mức thu nhập cao hơn. Tất nhiên là những nhà cai trị của
Việt Nam không thể rút cục bị xa lánh như của Trung Quốc vì họ đã thử nghiệm:
làm giàu tư bản trong khi đất nước vẫn bị lãnh đạo bởi Đảng Cộng Sản.
Trong một phần
tư thế kỷ, Việt Nam đã đi từ tem phiếu đến có thặng dư gạo nhiều nhất trên thế
giới. Nó vừa gia nhập, về mặt thống kê mà nói, các nước có thu nhập trung bình
thấp với mức GDP bình quân 1100 USD mỗi đầu người. Thay vì có một lãnh đạo có
tất cả quyền, nhưng có phần kém hiệu quả, với chân dung được in trên các pa nô
như trong trường hợp của Tunisia, Ai Cập, Syria, và những nước Ả Rập khác, bộ ba
chuyên chính của Việt Nam — chủ tịch đảng, chủ tịch nước, và thủ tướng (*) — đã
điều hành đất nước với trung bình 7 phần trăm tăng trưởng GDP mỗi năm trong
vòng hơn một thập niên vừa qua. Ngay cả khi ở đáy của cuộc Đại Khủng Hoảng vào
năm 2009, kinh tế địa phương tăng trưởng 5.5 phần trăm. “Đây là một kỷ lục
ấn tượng trong việc giảm nghèo trong lịch sử thế giới,” một nhà ngoại giao
phương Tây cho hay. “Họ đã đi từ xe đạp đến xe máy.”Điều đó, đối với
người Việt Nam, có thể là dân chủ. Và ngay cả nếu đó là không phải, ta có thể
nói rằng các chế độ chuyên chính của Việt Nam và Trung Quốc đã không lấy đi của
dân chúng nhân phẩm theo cách mà những chế độ ở Trung Đông đã làm. “Các nhà
lãnh đạo ở Trung Đông nắm quyền quá lâu và duy trì tình trạng khẩn cấp cho hàng
chục năm,” một cựu lãnh đạo cấp cao của Việt Nam nói với tôi. “Không có
chuyện đó ở đây. Thế nhưng chúng tôi có những vấn đề của tham nhũng, cách biệt
khủng khiếp trong thu nhập, và nhiều người trẻ thất nghiệp như các nước Trung
Đông.”
Điều làm Đảng
Cộng Sản Việt Nam sợ là không hẳn là ám ảnh của Mùa Xuân Ả Rập mà là cuộc nổi
dậy của sinh viên ở Trung Quốc vào năm 1989 khi mà lạm phát ở Trung Quốc cao
gần như ở Việt Nam cho đến gần đây và tham nhũng và nạn con ông cháu cha bị dân
chúng xem là ngoài vòng kiểm soát — đó là trường hợp của Việt Nam ngày nay. Và
dẫu vậy, các đảng viên cũng lo ngại rằng cải cách chính trị có thể đưa họ đi
đến con đường của trước 1975 ở Nam Việt Nam mà chính quyền yếu kém và bè phái
dẫn đến sự sụp đổ chính phủ; hoặc Trung Quốc vào thời kỳ cuối thế kỷ 19 và đầu
thế kỷ 20 với chính phủ trung ương yếu kém dẫn đến ngoại bang đô hộ. Các quan
chức Việt Nam ngưỡng mộ Singapore ra mặt, một quốc gia độc đảng mà điều hành
chính phủ với kỷ luật và trong sạch — điều mà không có mặt ở chính phủ đầy dẫy
tham nhũng của Việt Nam.
Trong khi đó thì
các nhà lãnh đạo của Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo phong cách Phổ của họ, các
chính sách kinh tế tư bản của họ, và kiểm soát chính trị chặt chẽ của họ để duy
trì độc lập quốc gia đối với Trung Quốc. Họ biết rằng, không như những nước của
Mùa Xuân Ả Rập, đất nước của họ đương đầu với đối thủ bên ngoài, cho dù tương
đồng về tư tưởng, mà mối đe dọa ngoại xâm làm thuyên giảm những ước muốn của
dân chúng về tự do hơn về chính trị. Thế nhưng như các nhà lãnh đạo của Ấn Độ,
các nhà lãnh đạo Việt Nam thận trọng về bất cứ một thỏa thuận hiệp ước chính
thức với Hoa Kỳ. Tất nhiên là nếu điều bắt buộc cần có một hiệp ước phòng thủ
với Hoa Kỳ phải đến thì điều đó cho thấy tình hình an ninh ở Biển Đông đã trở
nên mất ổn định. Trong trường hợp nào đi nữa, số phận của Việt Nam, và khả năng
của nó để không bị Phần Lan hóa bởi Trung Quốc, sẽ cho thấy nhiều về khả năng
của Hoa Kỳ phô diễn sức mạnh ở Thái Bình Dương và trên toàn thế giới ở thế kỷ
21 cũng như định mệnh của Việt Nam ở thế kỷ 20.
(*): Nguyễn Phú
Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng — ND.
No comments:
Post a Comment