Nguyễn Xuân Hoàng
Thứ Hai, 23 tháng 4 2012
Lần đầu tôi gặp nhà văn Bình Nguyên Lộc là vào năm 1972, khi tôi mới về làm
thư ký toà soạn tạp chí Văn. Ông gầy ốm, mái tóc chải rẽ đường ngôi ngay chính
giữa, đeo một đôi kính đen kiểu xưa và mặc bộ đồ trắng y như một công chức thời
Pháp thuộc. Tác giả Đò Dọc
lúc đó cho tôi thấy hình như có một tương ứng đặc biệt giữa trang phục người
viết và phong cách ông viết. Trong khi Sơn Nam, tác giả Hương
Rừng Cà Mau cũng không khác gì Bình Nguyên Lộc bao nhiêu, nếu không
nói là có vẻ lừng khừng hơn - để lại trong tôi nhiều ấn tượng văn học về phong
tục miền Nam, thì Bình Nguyên Lộc cho tôi một ấn tượng khó nói... Tôi có cảm
giác Bình Nguyên Lộc gần Hồ Biểu Chánh và Vương Hồng Sển,… khó… tiếp cận hơn,
trong khi Sơn Nam mặc dầu có nhân dáng còn xuề xoà hơn Bình Nguyên Lộc nhiều
nhưng tôi thấy lại gần gũi hơn, mới hơn, dễ gần hơn.
Sau đó, khi Bình Nguyên Lộc gửi tặng tôi cuốn Nguồn Gốc Mã Lai của dân
tộc Việt Nam, với lời dặn là nhớ đọc kỹ và cho biết ý kiến,
nhưng ‘hình như’ tôi đã bất công với ông. Tác phẩm khá công phu của ông, tôi đã
để một chỗ khá cao trong kệ sách toà soạn. Và tôi đã quên lời dặn của ông.
*
Mãi đến năm Một Chín Tám Mươi, khi nằm tù ở rừng U Minh, mỗi ngày đẩy phà
chở xe be trên Kinh Làng Thứ Bảy, … đào kinh, làm ruộng, theo bạn tù đi lấy mật
ong ở rừng tràm, hay lội trên những đường ngập bùn nước, rướm máu vì những gốc
lồ ồ nhọn và bén như dao… tôi mới có dịp nghe chuyện Bình Nguyên Lộc.
Người kể chuyện là một “tù cải tạo” ở trại B. Anh tên Tr., Bùi Văn Tr. đã
nằm ấp ở đây từ năm năm trước ngày tôi bị giải đến.
Một hôm, nhân ngày nghỉ cuối tuần của trại, Tr. rủ tôi đi bắt rắn và chuột.
Khi ngồi nghỉ trên bờ một ao nước, Tr. nói trước đây chỗ này là một hố bom. Năm
đầu tiên ở đây, Tr. kể, anh đã tìm thấy một cây thập tự bằng gỗ tràm với bộ
xương chôn vùi dưới nước. Anh nói đó có thể là xác một người lính Việt Nam Cộng
Hòa đã bị bắt và bị chôn sống, sau khi đã bị trói chân tay vào thân cây thập
tự. Nhìn đám tràm thấp và chắc thịt trước mặt, Tr. bỗng hỏi tôi:
“Ở Sài Gòn làm nghề gì?”
Ở cùng trại tù cả sáu bảy tháng trời, Tr. chưa hề hỏi quá khứ tôi một câu
nào, tự nhiên hôm nay anh buột miệng…
Tôi hơi do dự. Tôi luôn luôn có trong đầu một lý lịch giả. Chần chừ lâu
thấy kỳ, tôi nói:
“Lái xe đò.”
“Lâu chưa?”
“Cũng lâu rồi….”
“Vợ con gì chưa?”
“Rồi!”
“Học hành tới đâu rồi?”
“Học hành gì đâu. Chỉ biết đọc biết viết lỏm bỏm thôi.”
Tôi nói y như tôi khai lý lịch lúc ngồi tù ở Rạch Giá.
“Có khi nào đọc sách báo gì không?”
“Đọc lung tung, gặp gì đọc nấy. Không thích lắm!”
“Có đọc truyện của ông Bình Nguyên Lộc bao giờ chưa?”
“Có đọc qua đâu đó, nhưng không nhớ…” Tôi hơi ngạc nhiên trước câu hỏi của
anh.
“Có đọc truyện Rừng Mắm chưa?”
“Hình như chưa. Mà cũng không nhớ!…”
Tôi ngọng thật. Có lẽ tôi chưa đọc truyện nào của Bình Nguyên Lộc sau Ba Sao Giữa Giời. Và đó cũng là
truyện tôi đọc rất láo.
“Chưa đọc phải không?” Tr. cạy một hòn đất nhỏ nghiêng mình lấy đà liệng
xuống hố nước.
“Có lẽ chưa...” Tôi vẫn ngập ngửng trả lời anh. Tôi chưa biết Tr. muốn nói
gì. Câu chuyện rồi sẽ đến đâu.
“Tôi thì đọc không sót một truyện nào của ông Bình Nguyên Lộc.” Tr. nói.
“Tôi khoái truyện dài Đò Dọc
và các truyện ngắn Ba Con Cáo, Cho Tay Này Lấy Tay Kia…
tôi cũng mê Ba Sao Giữa Trời” –
Tr. nói là Trời chứ không phải là Giời như bản chính của tác
giả – “nhưng thích nhất vẫn là Rừng Mắm.”
“Tại sao?” Tôi hỏi, ngạc nhiên.
“Bởi vì trong Rừng Mắm tôi thấy có tôi ở trong đó.”
“…”
“Tiếc là anh chưa đọc. Thôi để tôi kể anh nghe. Nghe cũng như đọc chớ khác
gì. Chuyện vầy: Một gia đình bốn người gồm có thằng con tên Cộc, cùng với tía
má nó và ông nội nó, sống trong một vùng đất khô cằn là rừng U Minh. Đây nè,
chỗ tụi mình ngồi đây nè. Cả nhà đã ở chốn đồng không mông quạnh kia suốt năm
năm trời cũng bằng cái thời gian mà tôi ở đây vậy, xung quanh không có tiệm
quán chợ búa, hàng xóm láng giềng. Với lại cũng không có tiền nữa. Anh nghĩ coi
bây giờ mình vậy mà khá hơn cái gia đình bốn người trong truyện Rừng Mắm
của ông Bình Nguyên Lộc nhiều. Cả cái đám tù mình đây, từ ông sĩ quan cho tới
ông công chức học tập, cho tới mấy ông mấy bà vượt biên cũng gần cả ngàn chớ
phải chơi đâu. Vui hơn cái gia đình của thằng Cộc cả ngàn lần lận. Còn tiền thì
tuy có chút ít, và cũng đã bị nó cướp, nó đổi rồi, nhưng nếu có trắng tay thì
bất quá cũng trắng tay như nhà thằng Cộc là cùng. Nhưng mà mình còn có tiếp tế,
chớ thằng Cộc trong chuyện thèm chén chè, thèm một trái xoài thấy mồ cố tổ, mà
có được đâu. Còn mình, chè thì thỉnh thoảng vẫn có, xoài thì đâu đến nỗi. Nhưng
nghĩ cho cùng, truyện ông Bình Nguyên Lộc có chuyện gì đâu. Cái điều quan trọng
mà tôi khoái ổng là cái Rừng Mắm…”
“Rừng Mắm là rừng của những cây mắm?”
“Phải rồi, có biết cây mắm không?”
“Không, tôi chưa bao giờ nghe nói tới cây mắm. Cây đó dùng làm gì? Cất nhà
hay làm củi chụm?”
“Cây mắm không thể làm gì khác ngoài làm vật hy sinh. Cái hay của ổng là
vầy. Ổng nói rằng bờ biển mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy
ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ trở thành đất thịt được,
nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Chừng nào mắm ngã rạp, tràm sẽ
mọc lên. Rồi sau mấy đời tràm, đất thuần rồi cây ăn trái mới mọc được. Ổng nói
đời ông nội và tía má thằng Cộc là đời mắm còn đời thằng Cộc là đời tràm, đến
đời con cháu của Cộc sẽ đời lúa, mít, xoài, dừa, cau… Ông Bình Nguyên Lộc ổng
viết một câu mà tôi thấm lắm. Ổng nói là: Đời mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính
ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu họ hưởng. Tôi
ở đây đã năm năm xa nhà, xa vợ, xa con, chịu bao nhiêu là cay đắng tủi nhục,
nhưng mà tôi an lòng lắm. Ông Bình Nguyên Lộc ổng hay thiệt!”
Tr. ngừng nói ngó đăm đăm xuống hố bom. Trước mặt tôi là một rừng tràm bát
ngát.
“Anh nghĩ coi, tụi mình là cây mắm hay cây tràm đây?”
*
Tám tháng sau, tôi vượt trại giam Kinh Làng Thứ Bảy, chính Bùi Văn Tr. đã
giúp tôi một tay. Khi ra trại, Tr. tặng tôi chiếc túi vải do chính tay anh ráp
nối từ chiếc áo lính cũ. Cái túi vải ấy tôi thích lắm, tiếc thay, tôi đã không
giữ được. Người tài xế xe đò chạy đường Kiên Giang – Sài Gòn nói với tôi nếu
phải là tù cải tạo về thì nhớ trình Lệnh Tạm Tha ở các “chốt” công an, còn nếu
trốn trại, ông ta nói nhỏ, hãy để cái túi kia lại đi. Tôi đau xót hiểu đó là
một lời khuyên đáng lưu tâm.
*
Tết năm Tám Hai, tôi đến thăm Bình Nguyên Lộc. Căn nhà nằm cuối đáy một con
ngõ yên tĩnh. Cánh cổng thấp, nơi mà nhà văn Mai Thảo mỗi lần đến thăm đã phải
“dựa
xe vào thành tường, bên cạnh hai chậu Vạn niên thanh trấn môn xanh ngắt, một
màu xanh muôn thuở”.
Căn nhà yên lặng. Tôi gõ cửa. Không một tiếng trả lời. Tôi chờ thật lâu. Sau
đó, gõ mạnh hơn. Tiếng người nói rất khẽ là cửa không đóng xin cứ tự tiện. Tôi
mở cửa buớc vào nhà. Phòng khách tối, nhưng tôi vẫn thấy được cả tấm trần nhà
gần như sụm xuống. Những rui mè, rơm rạ và những thanh gỗ nhỏ gẫy sụp như bị
nước đọng từ mái quá lâu làm mục rã. Bình Nguyên Lộc nằm ở phòng trong. Căn
phòng hẹp. Cửa sổ mở ngó ra sân trước. Ánh sáng chiếu vào một chiếc bàn nhỏ có
một bình nước và hai cái ly. Mấy lọ thuốc tây. Sau khi thăm hỏi sức khỏe ông,
chúng tôi nói chuyện về những người viết Sài Gòn cũ, ai ở ai đi. Ông nhắc đến
tạp chí Văn, ông Nguyễn Đình Vượng và Trần Phong Giao, Mai Thảo, Sơn Nam. Ông
cũng kể tên vài ông nhà văn ngoài Bắc có đến thăm ông. Và phần tôi, tôi đã kể
cho ông nghe về một độc giả của ông ở rừng U Minh nói về cây mắm, cây tràm, cây
xoài. Ông nằm yên lặng nghe, không nói, mắt dán lên trần nhà. Đến khi tôi đề
cập truyện Rừng Mắm và nhắc lại câu chuyện anh Tr. kể, Bình Nguyên Lộc
cười:
“Truyện đó viết lâu quá rồi tôi không còn nhớ. Tuy nhiên tôi có thể nói sự
sống mới là cái quý, chớ thân thể đâu phải là điều quan trọng.”
Đầu năm Tám Lăm tôi đến Mỹ. Tháng Mười Tám Lăm, tôi hay tin ông cùng gia
đình cũng đã đến. Tôi gọi điện thoại thăm ông nhưng không có cơ hội gặp lại
ông.
Cuộc sống mới cuốn hút tôi trong những trăn trở không vui. Nhưng mỗi lần
đọc những bài viết cũ của ông, tôi thấy mình học được một điều: sự bình tâm
trước cuộc đời xô dạt và sự lạc quan trước những xao động của thời thế. Ông
viết như chơi, ông viết như nói, như thể ông là người có nhiều tay và trí nhớ ông
là chiếc tủ có nhiều ngăn kéo. Nói gì thì nói, tôi vẫn mang nơi tôi một món nợ
tinh thần khó trả lại cho ông. Khi nhà văn Nguyễn Mộng Giác báo tin cho tôi hay
là Bình Nguyên Lộc đã qua đời, tôi không biết phải làm gì với món nợ kia. Tôi
muốn đọc lại cái truyện ngắn của ông mà tôi đã đọc lần đầu, năm tôi vừa mười
tám tuổi. Truyện Ba Sao Giữa Giời in lại trong tập Ký Thác.
Bình Nguyên Lộc viết: “Tôi đau cho cái nghĩa đời con người liền sau khi
chết. Phút trước đây, mạng anh quý biết là bao nhiêu, mà phút sau này, xác anh
là đồ bỏ. Ra cái quý chính là sự sống chứ không phải là thân thể nữa. Có đau
hay không cho thân thể của con người?”
Cám ơn Bình Nguyên Lộc.
Xin vĩnh biệt ông Rừng Mắm.
“Anh nghĩ coi, tụi mình là cây mắm hay là cây tràm đây?” Câu hỏi của anh
Bùi Văn Tr. ở U Minh vẫn còn trong đầu tôi. [NXH] Tháng Tư, 2012
VỀ BÌNH NGUYÊN LỘC
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sanh năm 1914 Tân Uyên, Biên Hoà, sau khi đậu tú tài phần 1, ông ra làm công chức và bắt đầu viết văn từ năm 1943. Năm 1950 ông cho ra đời truyện dài Nhốt Gió.
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sanh năm 1914 Tân Uyên, Biên Hoà, sau khi đậu tú tài phần 1, ông ra làm công chức và bắt đầu viết văn từ năm 1943. Năm 1950 ông cho ra đời truyện dài Nhốt Gió.
Truyện ngắn Bình Nguyên Lộc nói về phong tục địa
phương và sự giao cảm của người dân và mảnh đất họ đang cư ngụ.
…
Trong giai đoạn về sau Bình Nguyên Lộc có hai tác
phẩm về ngôn ngữ-nhân chủng học là: Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam; Lột
Trần Việt Ngữ.
Các sáng tác tiêu biểu khác của ông gồm: Tân Liêu
Trai; Ký Thác; Nửa Đêm Trảng Sụp; Bí Mật Của Nàng; Quán Tai Heo; Tình Đất; Nụ
Cười Nước Mắt Học Trò; Những Bước Lang Thang Trên Hè Phố. ...
Bình Nguyên Lộc đến Hoa Kỳ tị nạn vào năm 1985 và
mất tại California vào tháng 3, 1987
.
.
.
No comments:
Post a Comment