Nguyễn Thu Trâm
Wednesday, April 18, 2012
Kính thưa quý vị,
Đã có bao giờ quý vị thử hỏi chính mình rằng đất nước Việt Nam này là của ai hay chưa? Câu hỏi nghe qua có phần ngớ ngẫn, nhưng nếu cứ suy gẫm kỷ về hiện tình đất nước trong non một thế kỷ qua cũng như với những gì đang diễn ra trên quê hương này trong mấy năm qua, cả trong cung cách cai trị người dân của đảng và nhà nước cầm quyền cũng như trong cách thức kinh bang tế thế của họ để thấy thật cần thiết cho mỗi người dân Việt tự đặt câu hỏi và tự tìm ra lời giải đáp cho chính mình rằng đất nước Việt Nam này là của ai? Của Dân Tộc Việt Nam hay của đảng cộng sản, của Hồ Chí Minh?
Kính thưa quý vị,
Xin hãy ngược dòng thời gian, quay về với lịch sử dựng và giữ nước của ông cha ta từ bao đời qua mà theo một truyền thuyết thì về thời Hồng Bàng, cách đây hơn 4000 năm các tộc người Việt cổ (Bách Việt) đã xây dựng nên nhà nước Xích Quỷ có lãnh thổ rộng lớn tại khu vực ngày nay là miền nam sông Dương Tử (Trung Quốc). Tới thế kỷ 7 trước công nguyên (TCN), người Lạc Việt, một trong những nhóm tộc Việt ở phía Nam đã lập nên nhà nước Văn Lang tại khu vực mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam, và kế tiếp là nhà nước Âu Lạc vào giữa thế kỷ 3 trước công nguyên.
Bắt đầu từ thế kỷ 2 TCN, người Việt ở đây bị các triều đại phong kiến Trung Quốc cai trị trong hơn 1000 năm. Sau nhiều lần khởi nghĩa không thành của Bà Triệu, Mai Thúc Loan,... hoặc chỉ giành độc lập ngắn của Hai Bà Trưng, Lý Bí... đến năm 905 Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự chủ cho người Việt, và Việt Nam chính thức giành được độc lập lâu dài sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng do Ngô Quyền chỉ huy trước đoàn quân xâm lược Nam Hán năm 938.
Sau khi giành được độc lập, từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15 Việt Tộc lại tiếp tục chiến đấu một cách ngoan cường chống lại nhiều cuộc xâm lược bởi các triều đại phương Bắc của giặc Hán, giặc Mông , và giặc Mãn Thanh để giữ nguyên cõi bờ ở phía Bắc, đồng thời các Triều đại Quân Chủ Việt Nam cũng nhiều lần chinh phạt quân Chiêm Thành và mở mang lãnh thổ dần xuống phía Nam để rồi từ năm 1757 đất nước Việt Nam đã có ranh giới địa lý gần như hiện nay.
Thế rồi đến giữa thế kỷ 19, cùng với các nước ở Đông Dương, Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Trong Thế chiến thứ hai, đất nước Việt Nam lại tiếp tục bị xâu xé giữa thực dân Pháp và Phát xít Nhật, tuy nhiên suốt gần 100 năm bị đô hộ bởi giặc Tây đó, Việt Nam vẫn không hề bị mất đi một tấc đất liền hay một sãi nước biển. Vậy mà ngay sau khi hay tin phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Hồ Chí Minh tiến hành thanh trừng các lãnh tụ của các chính đảng đương thời và cướp chính quyền từ tay các đảng phái chính trị Quốc gia đó, rồi đến ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước theo chế độ cộng sản đặt dưới sự điều hành trực tiếp của Quốc Tế cộng sản mà cụ thể là Nga Sô và Trung cộng. Và, chính là từ thời điểm lịch lử đó vận mệnh của quốc gia, của dân tộc đã hoàn toàn vuột khỏi tay người dân mà nằm gọn trong tay của Hồ Chí Minh và các thuộc hạ của y trong bộ chính trị ban chấp hành trung ương đảng CSVN. Và cũng chính từ thời điểm này, lãnh thổ, lãnh hải của tổ quốc Việt Nam cứ tiếp tục bị thu hẹp lại dần: Ngày 14 tháng 9 năm 1959, thừa lệnh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng đã ký Công Hàm bán đứng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung cộng, mà hệ lụy là sự ra đời của đường lưỡi bò chín đoạn biến gần như 85% hải phận của Việt Nam thành “ao nhà” của trung cộng. Và từ đó thảm họa đã liên tục xãy đến cho ngư phủ Việt Nam khi đi khai thác hải sản trong hải phận của tổ quốc mình: Hàng chục vụ ngư thuyền của ngư phủ Việt Nam bị “Tàu Lạ” đụng chìm, hàng trăm vụ việc ngư phủ Việt bị trấn cướp bởi các lực lượng tuần dương và hải quân của “nước bạn”, hàng trăm ngư phủ của Việt Nam đã bị các lực lượng tuần dương và hải quân của “nước bạn”, bắn chết cùng hàng trăm ngư dân khác bị bắt đưa về “nước bạn” giam giữ và đòi tiền chuộc, mà số tiền chuộc cho mỗi ngư dân này xấp xỉ với số tiền lương của 20 năm làm việc của một công nhân viên chức của Việt Nam, trong khi đó đói với những ngư dân nghèo này thì dẫu có bán hết nhà cửa ruộng vườn, vợ con và bán cả bà con hai họ cũng không thể đủ tiền để chuộc họ về: Thật là xót thương cho thân phận con người ở cái thiên đường XHCN của “bác và đảng”.
Cứ thế, phần lãnh thổ của Việt Nam cũng tiếp tục thu hẹp dần: “Từng cây số trên quê hương là từng giòng máu lệ, máu của cha ông ngăn thù và máu của hai miền huynh đệ chan hòa vào nhau trong hoan lạc dành cho Quốc tế Cộng Sản. Và đang trở về đây là những bước chân âm thầm của ngàn năm nô lệ. Kết quả từ công cuộc nhuộm đỏ với danh xưng “độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và lủ thuộc hạ.
Hãy tiếp tục nhìn những gì mà nhà cầm quyền CSVN đang ra sức thực hiện: “Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Bãi Tục Tục không thuộc lãnh thổ Việt Nam!”. Họ cố chối bỏ lịch sử Việt Nam và ra sức tranh cãi, biện luận với dân Việt thay cho Trung Cộng.
Kính thưa quý vị,
Theo Dư Địa Chí do Nguyễn Trãi, một khai quốc công thần nhà Hậu Lê, soạn năm 1435 thời vua Lê Thái Tông, thì toàn bộ hai phần thác Bản Giốc gồm thác Chính và thác Phụ vốn đều thuộc về Việt Nam. Cả hai thác này đã bị mất cho Trung Cộng từ khi Hồ Chí Minh cướp chính quyền, và sau khi cưỡng chiếm được hai thác này, Trung cộng đã đặt lại tên cho hai thác này là thác Đức Thiên và thác Bản Ước (德天-板約). Thế mà thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng khẳng định rằng “thông tin đó hoàn toàn không có cơ sở, rằng Công ước Pháp-Thanh 1887 và Hiệp định 1999 đều quy định đường biên giới khu vực này chạy theo trung tuyến dòng chảy sông Quế Sơn (Quây Sơn), lên thác và tới mốc 53 phía trên. Nghĩa là, phần thác phụ hoàn toàn nằm bên phía Việt Nam, phần thác chính có một phần thuộc Trung Quốc”.
“Ô nhục! Từ quan đến quân, cộng sản Việt Nam xét cho cùng chỉ là một lũ tôi mọi dâng đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang bằng văn tự công hàm, hiện rõ hình hài là một bọn quái thú chưa từng có trong lịch sử nhân loại!”.
Trên thực tế, phần Bãi Tục Lãm là một bãi đất bồi dài khoảng 1,5 km, diện tích 52 ha nằm tại cửa sông Ka Long đổ ra vịnh Bắc Bộ thuộc phường Hải Hoà, thị xã Móng Cái, Quảng Ninh. Bãi được bao phủ bởi một thảm thực vật ngập mặn và không có người định cư, nằm giữa ranh giới Việt Nam-Trung cộng và là nơi khởi đầu của đường biên giới trên bộ của hai nước, tính từ biển Đông. Khu vực biên giới vùng cửa sông này đã được Pháp - Thanh hoạch định và cắm mốc theo Hiệp ước Pháp-Thanh. Nhưng vào thời điểm đó các cồn bãi Tục Lãm, Tài Xẹc, Dậu Gót đều đang hình thành từ đất sa bồi của giòng sông Ka Long và chưa có hình thể cũng như quy mô như hiện tại. Trong chiến tranh biên giới Tây Bắc 1979, Trung cộng đã chiếm giữ Cồn đất này và tuyên bố rằng Bãi Tục Lãm thuộc lãnh thổ của Trung cộng.
Đến ngày 22 tháng 12 năm 2008, thông qua đàm phán chính trị giữa Việt cộng và Trung cộng, hai bên đã thoả thuận phân chia ranh giới, qua đó, Việt Nam chính thức nhựơng 1/4 diện tích bãi Tục Lãm nằm về phía Đông Bắc cho phía Trung Cộng, thỏa thuận này có thể được xem là Công Hàm 2008 của cộng sản Việt nam về việc dâng bán đất đai của tổ quốc cho Hán Tặc.
Riêng Ải Nam Quan, từng là Biên Ải của hai nước Việt Nam- Trung Quốc từ ngàn năm trước, mà lịch sử của cả hai nước đã ghi lại rằng:
Vào năm 981, sau khi vua Đinh Tiên Hoàng của Đại Cồ Việt bị ám sát, vua nhà Tống là Tống Thái Tông sai Hầu Nhân Bảo tấn công Đại Cồ Việt qua đường Lạng Sơn, đi qua ải Nam Quan.
Năm 1077, Tống Thần Tông sai Quách Quỳ tấn công Đại Việt, quân bộ đã đi theo đường Nam Quan, xuống ải Quyết Lý rồi ải Chi Lăng.
Năm 1284, 1287, vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt (Kubilai) đã sai Thoát Hoan tấn công Đại Việt bằng đường bộ qua Lạng Sơn, ắt phải qua ải Nam Quan.
Năm 1774, Ðốc trấn Lạng Sơn là Nguyễn Trọng Ðang cho tu sửa, xây lại Ải Nam Quan bằng gạch. Về việc sửa sang đài Ngưỡng Ðức, văn bia của Nguyễn Trọng Ðang ghi khắc có đoạn như sau:
"... Ðài "Ngưỡng-Ðức" không biết dựng từ năm nào; hình như mới có từ khoảng niên hiệu Gia-Tĩnh nhà Minh, ngang với niên-hiệu Nguyên-Hòa, đời vua Lê Trang Tông ở nước ta. Ðài không có quán, hai bên tả hữu lợp bằng cỏ; sửa chữa qua loa, vẫn theo như cũ. Nhà Lê ta trung hưng, đời thứ 14, vua ta kỷ-nguyên thứ 41, là năm Canh tý, ngang với năm thứ 44 niên hiệu Càn-Long nhà Thanh; Ðang tôi làm chức Ðốc-trấn (Lạng-Sơn), trải qua 5 năm là năm Giáp-thìn; sửa chữa lại, xây dựng bằng gạch ngói, đài mới có vẻ hoành tráng...".
Năm 1788, theo lời cầu viện của thân mẫu của Lê Duy Kỳ, vua nhà Thanh là Càn Long (1736-1795) cử Tôn Sĩ Nghị cầm đại quân sang Đại Việt, đi bằng ba ngả: Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế Hanh vào cửa Nam Quan, qua Lạng Sơn đi xuống, Sầm Nghi Đống đi qua đường Cao Bằng, và đề đốc Vân Nam Ô Đại Kinh vào đường Tuyên Quang. Đoàn quân viễn chinh nhà Thanh bị vua nhà Tây Sơn là Quang Trung đánh tan, phải chạy tháo thân về Tàu vào đầu năm Kỷ Dậu (1789).
26 tháng 6 năm 1887, Công Ước Về Hoạch Ðịnh Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc ký giữa Pháp và Nhà Thanh. Ngày 21 tháng 04 năm 1891 tiến hành cắm cột mốc tại vùng biên giới gần ải Nam quan.
Năm 1907, Tôn Trung Sơn và Hoàng Hưng phát động cuộc khởi nghĩa Trấn Nam Quan chống Thanh, nhưng thất bại.
Năm 1957, Chính phủ tỉnh Quảng Tây đã chi tiền trùng tu lại thành lầu Hữu Nghị quan, trở thành một kiến trúc ba tầng như hiện nay.
Từ ngày 17 tháng 2 năm 1979, trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, Trung cộng đã tung trên 660.000 quân tấn công Việt Nam ở sáu tỉnh biên giới: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh, và đã chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.
Bộ binh Trung cộng vào thị xã Lào Cai bằng thung lũng sông Hồng, vào thị xã Cao Bằng theo thung lũng sông Bằng (Bằng Giang), và vào thị xã Lạng Sơn theo thung lũng sông Kỳ Cùng, vào ải Nam Quan. Sau khi rút quân ngày 5 tháng 3 năm 1979, quân Trung cộng vẫn chiếm giữ vùng đất phía nam ải Nam Quan, và trạm hải quan (quan thuế) của cộng sản Việt Nam phải dời xuống phía nam ải nầy, sâu trong lãnh thổ Việt Nam.
Vào ngày 30 tháng 12 năm 1999, tại Hà nội, bộ trưởng ngoại giao của cộng sản Việt Nam là Nguyễn Mạnh Cầm và bộ trưởng ngoại giao của Trung cộng Đường Gia Triền đã chính thức ký ‘Hiệp ước biên giới trên đất liền’, theo đó Ải Nam Quan thuộc về Trung quốc. Bản hiệp ước này được quốc hội Trung cộng thông qua ngày 29 tháng 4 năm 2000, và quốc hội cộng sản Việt Nam thông qua ngày 9 tháng 6 cùng năm đó, và việc cắm mốc biên giới bắt đầu từ năm 2001 đến cuối năm 2008 là xong. Bản ‘Hiệp ước biên giới trên đất liền’ được xem là “Công Hàm” 2000 của cộng sản Việt Nam, dâng bán thêm một phần đất đai của tổ quốc cho Rợ Hán Bắc phương. Vì vậy mà từ năm 2000 cho đến nay, ải Nam Quan thuộc chủ quyền của Trung Cộng, thuộc tỉnh Quảng Tây, cách thị trấn Bằng Tường của Trung cộng 15 km về phía tây và cách thi trấn Đồng Đăng của Việt nam 5 km về phía bắc. Chính quyền CSVN cho xây lại cửa khẩu Hữu Nghị Quan nằm tại Đồng Đăng xác định lại biên cương của tổ quốc lùi sâu vào lãnh thổ của Việt Nam so với đường biên giới xưa theo Hiệp Ước Pháp-Thanh, cách cột mốc biên giới cũ đúng 5 km.
Nếu không tự cho mình cái quyền sở hữu cả giang sơn Đại Việt này, làm sao Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng cùng đám thuộc hạ lại dám ký Công Hàm 1958 để dâng biển, nhượng đảo cho Hán Tặc để rồi ngư dân Việt bị cướp, bị giết, bị bắt giữ và đòi tiền chuộc bởi chính quyền nước bạn?
Nếu không tự cho rằng đất nước Việt Nam này là của riêng đảng cộng sản, sao tên cộng nô Nguyễn Mạnh Cầm và đảng cộng sản Việt Nam lại ngang nhiên ký công hàm 2000 dâng bán Ải Nam Quan và hàng trăm km2 dọc biên giới phía Bắc cho Rợ Hán?
Nếu không cho rằng đất nước Việt Nam là tài sản riêng tư của đảng cộng sản, sao Thứ Trưởng Ngoại Giao Vũ Dũng dám ký Công Hàm 2008 dâng bãi Tục Lãm cho Hán Ngụy để đường biên giới phía Đông Bắc của tổ quốc cứ thế bị thu hẹp dần theo sự lắng bồi của phù sa sông Ka Long để rồi bãi Tục Lãm được bồi đắp lớn rộng đến đâu thì lãnh thổ của Việt Nam bị thu hẹp đến đó?
Nếu không tự cho mình cái quyền uy tối thượng được ngồi trên đầu cả dân tộc Việt Nam này sao đảng cộng sản Việt Nam dám tự ý cho Hán Ngụy thuê hàng triệu Hecta rừng đầu nguồn với thời lượng gần car 100 năm, một khoảng thời gian đủ để cho 4 thế hệ người Hán được sinh ra và an cư trên mãnh đất mà những “đồng chí tốt, láng giềng tốt” của chúng đã hữu hảo dâng bán?
Nếu không tự cho rằng đất nước Việt Nam này là tài sản riêng của đảng cộng sản, sao Thái Thú Nguyễn Tấn Dũng lại ngang nhiên dâng bán Tây Nguyên cho Hán Tặc đến khai thác Bauxite vừa nhằm tàn hại môi trường sinh thái của Việt Nam vừa thực hiện chính sách di dân đường dài để giải quyết nạn nhân mãn của Thiên Quốc?
Nếu không nghĩ rằng cả dân tộc Việt Nam là một bầy đàn ngu muội và chỉ là những kẻ nô lệ mà chủ nô là đảng cộng sản Việt Nam và mẫu quốc Trung cộng, thì tại sao nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại bắt cả toàn dân Việt Nam rúm ró hèn nhược trước giặc Tàu? Tại sao lại bắt bớ, giam cầm những người lên tiếng chống lại sự xâm lăng bờ cõi của giặc Tàu và âm mưa Hán hóa của chúng, như Bùi Thị Minh Hằng, Phạm Thanh Nghiên, Cù Huy Hà Vũ? Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và anh Ba Sài Gòn Phan Thanh Hải và nhạc sỹ Việt Khang? Tại sao lại ngăn cấm người dân Việt Nam thể hiện lòng yêu nước và căm thù giặc ngoại xâm? Tại sao lại đàn áp hết sức dã man những người Việt Nam biểu tình chống Tàu cộng xâm lược? Tại sao những đầy tớ của nhân dân lại đi bắt bớ giam cầm tra tấn những người dân yêu nước khẳng định chủ quyền biển đảo rằng “Hoàng Sa – Trường Sa Là Của Việt Nam”?
Trong tư duy của nhà cầm quyền cộng sản, phải chăng, nếu như Vua Trần Nhân Tông cũng là một đảng viên cộng sản, thì Ngài đã xuống chiếu “trảm” tất cả các bô lão dự Hội Nghị Diên Hồng, vì họ đã quyết một lòng chống lại 50 vạn quân Mông Cổ xâm lược?
Nếu nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam và những con người cộng sản thừa nhận rằng đất nước Việt Nam là của Dân Tộc Việt Nam vì họ cũng còn chút lương tri và một tí chút nhân cách, thì hãy trao trả lại đất nước Viêt Nam cho 96 triệu người dân Việt, hãy trao vận mệnh đất nước Việt Nam cho toàn dân Việt Nam quyết định, chứ không phải chỉ một Hồ Chí Minh, một Phạm Văn Đồng, một Nguyễn Mạnh Cầm, một Vũ Dũng, một Lê Khả Phiêu, một Nguyễn Tấn Dũng, một Nguyễn Phú Trọng… được toàn quyền quyết định vận mệnh của đất nước của dân tộc này… Và nếu thế, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hãy trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện cho tất cả những người đang bị cầm tù vì tội yêu nước và hãy phong cho họ là những anh hùng vệ quốc bởi xét rằng họ là những người yêu nước đích thực, không hề nhận mệnh lệnh của Quốc Tế Cộng Sản về để tiến hành diệt chủng, họ không hề bán đất liền, nhượng biển đảo cho ngoại bang… Xét về nhân cách thì họ cao trọng gấp triệu lần “cha già dân tộc” và những con người cộng sản thuộc hạ của chả.
Dân tộc Việt Nam chưa bao giờ úy kỵ giặc Tàu dù đã phải trải qua ngót 1.000 năm nô lệ, lịch sử đã chứng minh trong mọi cuộc chiến chống lại Tàu Man, dân Nam luôn giành chiến thắng dù thường phải lấy yếu để đánh mạnh, lấy ít để địch nhiều, đến nỗi, Hán Hiến Đế của Tàu Man phải thần phục mà rằng: “Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất ..!”.
Thế, cớ làm sao nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại nịnh nọt bợ đỡ giặc Tàu? Việt Nam đường đường một quốc gia độc lập mà sao nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại tự nguyện xếp ngang hàng với một tỉnh biên giới của giặc Tàu là cớ làm sao?”.
Hồ Chí Minh và những con người cộng sản thuộc hạ vốn nhu nhược khiếp hèn trước ngụy Hán, nên phải dâng đất bán biển đảo rồi nhận Trung cộng làm mẫu quốc để cầu vinh, nhưng hãy luôn nhớ rằng “Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất ..!”.
Nhược bằng cứ muốn tiếp tục sống nhục, sống hèn với ngụy Hán, để cầu an hưởng lạc thì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hãy công khai tuyên bố trước toàn dân rằng: “Đất Nước Việt Nam là của đảng cộng sản, không phải của dân tộc Việt Nam.
Cuối cùng, xin một lần nữa nêu lên tự vấn của riêng tôi và cho những người đang nặng lòng với vận nước rằng đất nước Việt Nam này là của ai, của dân tộc Việt Nam hay chỉ là của riêng đảng cộng sản?.
Nguyễn Thu Trâm
Ngày 19 tháng Tư Đen năm thứ 37
.
.
.
No comments:
Post a Comment