Kính
thưa cụ Tổng, chúng cháu chưa giàu
Bình luận của Lê Minh
2023.05.23
“Mai kia có
làm ra của cải vật chất, mang lại giàu có và hạnh phúc cho nhân dân hay không,
đấy mới là thành công thực tế của đại hội”- cụ Tổng Trọng nói về sự thành công
của hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 13 như vậy.
Hội nghị nói trên diễn ra từ ngày 15/5/2023, vừa
kết thúc vào sáng 17/5/2023.
Nói như cụ Tổng, kết quả của hội nghị mới nhất
này còn phải chờ xem cụ thể. Nhưng với tiêu chí cụ nêu ra thì với các hội nghị
đã qua, tôi khẳng định ngay là tôi không hề được mang lại hạnh phúc và giàu có.
Có nghĩa đó đều là các hội nghị thất bại.
Ta sẽ nói về tiêu chí giàu có trước
Từ năm ngoái đến đầu năm nay, bức tranh kinh tế
của Việt Nam chỉ toàn một màu ảm đạm.
Tại báo cáo về tình hình quan hệ lao động năm
2022 và ba tháng đầu năm 2023, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cho biết đơn vị
này sẽ hỗ trợ tiền cho khoảng một triệu người lao động bị mất việc làm và có
hoàn cảnh khó khăn. Họ là những người chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi hàng loạt
doanh nghiệp bị giảm đơn hàng hoặc mất hợp đồng. Con số này rất lớn: có đến
10,7% số doanh nghiệp định giảm quy mô hoặc đóng cửa và tới 65% doanh nghiệp
không có kế hoạch mở rộng. Nói cách khác là nín thở chờ qua ngày.
Chuyên đề “Lương-chính sách và thực tiễn” được
thực hiện trên báo Quân Đội Nhân Dân đưa ra những con số đáng kinh ngạc suốt
quá trình cải cách tiền lương hơn 60 năm qua của Nhà nước Việt Nam.
Đầu tiên là giai đoạn 1960-1984.
Mức lương tối thiểu theo quy định thời điểm đó
là 27,3 đồng. Kỹ sư công nghiệp nhẹ bậc 1 mức lương 70 đồng, bộ trưởng và chức
vụ tương đương mức lương 192 đồng.
Lần cải cách tiền lương thứ hai là giai đoạn
1985-1992. Mức lương tối thiểu 220 đồng/tháng, ứng với mức giá ở những vùng có
giá sinh hoạt thấp nhất. Những vùng có giá sinh hoạt cao hơn thì được tính thêm
phụ cấp chênh lệch giá sinh hoạt. Theo đó, nhân viên phục vụ bậc 1 có lương 220
đồng, kỹ sư bậc 1 lương 290 đồng, bộ trưởng và chức vụ tương đương lương 770 đồng.
Giai đoạn 1993-2002 diễn ra lần cải cách tiền
lương thứ ba. Mức lương tối thiểu năm 1993 là 120 ngàn đồng/tháng. Tiếp đó vào
các năm 1997, 1999 và 2000 được nâng lên tương ứng 144 ngàn đồng/tháng, 180
ngàn đồng/tháng và 210 ngàn đồng/tháng.
Lần cải cách tiền lương gần đây nhất diễn ra
trong giai đoạn 2003-2020. Mức lương tối thiểu là 310 ngàn đồng/tháng. Đến
2005, nâng lên 350 ngàn đồng/tháng. Năm 2006 nâng tiếp lên 450 ngàn đồng/tháng.
Từ năm 2013, tiền lương tối thiểu được đổi
thành mức lương cơ sở. Đến năm 2018, lương cơ sở của người lao động trong khu vực
công đạt 1,390 triệu đồng/tháng.
Báo này viết: “Tăng lương đồng nghĩa với tăng
thu nhập của người lao động. Tuy nhiên, trong quá khứ, việc tăng lương nhiều lần
đã mang lại kết quả trái ngược. Khi lương chưa tăng, giá đã tăng vượt mức tăng
của lương”.
Trong bốn lần cải cách tiền lương, lần cải
cách thứ hai (1985-1992) chứng kiến một thời kỳ siêu lạm phát. Năm 1986, mức lạm
phát lên đến 774,7%, khiến nền kinh tế rối loạn. Riêng các mặt hàng nông sản, vật
giá năm 1986 so với năm 1976 thì tăng tới 2.000%. Năm 1987, lạm phát là 323,1%.
Năm 1988, vọt lên 393%. Đến năm 1989 mới xuống dưới 100% (34,7%).
Một ví dụ điển hình khác về tình trạng lương “đuổi” theo giá là giai đoạn
2004-2012.
Trong tám năm, tiền lương tối thiểu được điều
chỉnh tổng cộng bảy lần, từ mức 210 ngàn đồng/tháng (năm 2004) lên mức 830 ngàn
đồng (năm 2012), gấp gần bốn lần. Chia trung bình, mỗi năm tăng khoảng 15%.
Tuy nhiên, trong bảy lần điều chỉnh lương tối
thiểu, chỉ số lạm phát cũng tăng khoảng 2,5 đến ba lần. Đặc biệt, có hai năm lạm
phát đến mức hai con số, cao hơn nhiều mức tăng lương tối thiểu.
Năm 2008, lương tối thiểu được điều chỉnh từ
450 ngàn đồng lên 540 ngàn đồng, tức tăng 20% thì mức lạm phát lại lên tới
22,97%. Tương tự, ngày 1-5-2011, lương tối thiểu tăng thêm 100 ngàn đồng
(13,7%) nhưng chỉ số lạm phát 9 tháng đầu năm 2011 đã lên mức 18,16%.
Đơn cử, năm 2003, 1kg gạo có giá khoảng
4.000-5.000 đồng, đến năm 2012, dao động mức 17 ngàn-20 ngàn đồng, tức tăng khoảng
bốn lần. Tính chung, giá lương thực, thực phẩm tăng 3-4 lần so với thời kỳ
lương tối thiểu 210.000 đồng.
Như vậy, mặc dù lương tăng gần bốn lần sau bảy
đợt điều chỉnh nhưng về thực chất chỉ đủ bù trượt giá trong tám năm. Riêng hai
năm lạm phát cao hơn chỉ số tăng lương tối thiểu (năm 2008 và năm 2011) thì
tăng lương không đủ bù đắp trượt giá.
Báo này viết tiếp: “Mức siêu lạm phát của giai
đoạn cải cách tiền lương 1985-1992 khiến việc tăng lương không còn ý nghĩa. Thậm
chí, còn trở thành nỗi ám ảnh đối với những người hưởng lương”.
Những con số trên đủ mô tả khái quát lẫn chi
tiết bức tranh đầy những nghịch lý về giá-lương-tiền do Nhà nước điều hành
trong suốt mấy chục năm qua.
Nhà nghiên cứu rạch ròi chính xác như thế, còn
nhân dân chỉ gọn lỏn một câu: Năm anh em trên một chiếc xe tăng-xăng tăng, điện
tăng, nước tăng, giá tăng… huyết áp tăng.
Các bà nội trợ còn súc tích hơn nữa. “Mỗi lần xách giỏ ra chợ như bị mất cắp”!
https://www.rfa.org/vietnamese/news/comment/blog/dear-party-chief-we-are-not-rich-05232023133517.html/000_33fw8xu.jpg/@@images/dbd66bc2-e66b-4bb5-a15d-480922b177ad.jpeg
Người bán rau trên phố ở Hà Nội hôm 22/5/2023
(minh họa). AFP
Giai cấp nòng cốt tiên phong… thiếu ăn
Công nhân và nông dân, hai giai cấp mà Đảng Cộng
sản Việt Nam gọi là tiên phong nòng cốt thì đời sống thuộc vào hàng nhọc nhằn
nhất xã hội.
Năm 2021, khảo sát của Viện Công nhân và Công
đoàn (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) cho thấy 21% người lao động phải ăn nhiều
mì tôm hơn so với trước, 48% người phải giảm lượng thịt hàng ngày, 22% lao động
phải chuyển từ đi chợ mua thức ăn hàng ngày sang dùng thực phẩm do người thân
cung cấp; 15% trường hợp lựa chọn ăn gộp bữa, giảm bữa. Tất cả đều nhằm tiết kiệm
tiền, giảm chi tiêu khi lương tăng không kịp giá.
Ngoài ra, 60% người lao động phải tiết kiệm
các khoản chi; 11% phải vay mượn tiền của người thân; thậm chí 0,3% phải vay
lãi suất cao, tín dụng đen hoặc bán sổ bảo hiểm xã hội.
Khảo sát tiếp theo về thực trạng đời sống công nhân được thực hiện trong tháng
4/2022 với 2.016 người lao động tại các doanh nghiệp cho thấy, chỉ một nửa số
đó vừa đủ trang trải chi phí cơ bản cho cuộc sống, số còn lại luôn phải sống
trong khó khăn. Theo đó, 12% người lao động phải đi vay tiền để ổn định cuộc sống,
35,5% thỉnh thoảng phải đi vay tiền (3-4 tháng/lần), 34,8% phải đi vay tiền 1-2
lần/năm. Chỉ có 17,8% người lao động là không phải đi vay. 20,2% số công nhân
lao động cho biết đã từng phải rút bảo hiểm xã hội một lần để trang trải cuộc sống,
sau đó lại tiếp tục tham gia.
Báo cáo tình hình lao động, tiền lương, thu nhập,
chi tiêu và đời sống của công nhân lao động năm 2022 do Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam thực hiện trong tháng 3 cho thấy: Nếu không làm thêm giờ, tiền lương
cơ bản của công nhân lao động chỉ ở mức trung bình 4,92 triệu đồng/tháng. Với mức
lương này, hầu hết những gia đình công nhân sẽ rơi vào khó khăn trước hàng loạt
chi phí phải trang trải. Công nhân lao động ở một số ngành, lĩnh vực phải làm
thêm giờ nhiều, có khi lên đến 60-70 giờ/tháng như ngành dệt may, điện tử, da
giày, chế biến thủy hải sản, sản xuất gỗ... Có lẽ vì làm việc vất vả nhưng
lương thấp nên theo khảo sát, có tới 72% người lao động không muốn con cái sau
này theo nghề nghiệp của mình”.
Còn ông Nguyễn Đình Quảng, Phó Trưởng ban
Chính sách, Pháp luật (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) cho biết: “Chỉ trong
quý I/2022 đã diễn ra 64 cuộc đình công, ngừng việc tập thể trên cả nước, tăng
40% (20 cuộc) so cùng kỳ 2021. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ngừng việc tập thể,
đình công tự phát này là do vấn đề tiền lương và chế độ phúc lợi cho người lao
động”.
Theo Bộ Lao động-Thương binh và xã hội, tỷ lệ
hộ nghèo đa chiều (tức là ngoài thiếu ăn, thiếu mặc còn thiếu nước sạch, vệ
sinh, chăm sóc y tế, điều kiện học hành…) trong năm 2022 chiếm đến hơn 7,5% dân
số, với gần hai triệu hộ gia đình nghèo và cận nghèo. Trong đó vùng trung du và
miền núi phía Bắc chiếm tỷ lệ cao nhất cả nước, đến gần 22%.
Thu nhập của nông dân chỉ vỏn vẹn chưa đến 6,5
triệu đồng/tháng cho cả một hộ gia đình trung bình bốn người (báo cáo của Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 2020).
6,5 triệu đồng/tháng chỉ đủ cho người nông dân nấu cơm (lúa tự trồng) ăn với
vài quả trứng (gà vịt tự nuôi) và ít rau luộc (rau hái vườn nhà). Nói tóm tắt
là cả một cuộc đời dài vẫn chỉ loanh quanh luẩn quẩn ở kiếm miếng ăn đút miệng,
nền tảng thấp nhất của tháp nhu cầu Maslow.
Nói như nhà thơ Chế Lan Viên: “Giấc mơ con đè
nát cuộc đời con”.
***
Vậy đấy, thưa cụ Tổng kính yêu. Cho tới nay, chưa thấy bao giờ Đảng ta có một hội
nghị thất bại. Luôn luôn là thành công tốt đẹp. Nhưng các hội nghị thành công rực
rỡ đã mang lại tiền bạc của cải và sự giàu có cho nhân dân hay chưa như cụ nhấn
mạnh, thì xin cụ tự rút ra kết luận.
--------------
Tham khảo:
https://tuoitre.vn/nong-dan-viet-co-thu-nhap-trung-binh-gan-3-6-trieu-dong-thang-202111292018404.htm
https://tuoitre.vn/nho-thoi-vuot-rao-doi-moi-ky-1-di-buon-thoi-bao-cap-2022060209425704.htm
https://vneconomy.vn/ca-nuoc-con-hon-1-9-trieu-ho-ngheo-da-chieu.htm
-------------------------------------------------------------------
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài À Châu Tự Do.
Tin, bài liên quan
BLOG
·
Gặp
gỡ nguyên lãnh đạo các thế hệ, Đảng đề phòng nguy cơ bất ổn ở “thượng tầng”
·
Quay
lại chế độ chuyên chế “toàn trị” báo hiệu thời kỳ tăng trưởng kinh tế khó khăn
·
Quyền
lực “vô đối” của ông Tổng bí thư Đảng: Nguy cơ tha hoá và thách thức kế vị
·
Phút
nghẹn ngào của ông Nguyễn Phú Trọng
No comments:
Post a Comment