Lại phải thưa vài dòng với ông giáo sư tiến sĩ Trần Ngọc Thêm
Hoàng Tuấn Công
3 tháng 12, 2021
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2021/12/them_tran-ngoc_ngon-ngu-1024x640.jpg
Ông Trần Ngọc Thêm
(ảnh: ussh.vnu.edu.vn)
Ý NGHĨA CỦA “KỲ
YÊN”, “AN”, “BÌNH”, “YÊN”
Nhà nghiên cứu văn hoá, giáo sư-tiến sĩ khoa học
Trần Ngọc Thêm là tác giả sách “Cơ sở văn hoá Việt Nam”. Trong đó, ông quy cho
văn hoá Việt Nam cái gọi là “bản chất âm tính”, rồi hầu như mọi hiện tượng
xã hội đều được giải thích xoay quanh nó. Trong tham luận “Xây dựng văn hoá
học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo”[*], mục “2.
Các mô hình văn hoá học đường”, GS. Trần Ngọc Thêm viết:
“Văn hoá Việt Nam truyền thống thuộc loại
hình âm tính, trọng tĩnh điển hình. Do vậy, văn hoá học đường Việt Nam truyền
thống thuộc loại hướng đến xã hội ổn định”.
Đến mục “3. Để có con người chủ động”,
GS. Trần Ngọc Thêm cho rằng, “loại hình âm tính, trọng tĩnh điển hình” của
người Việt Nam thể hiện qua “lễ hội Kỳ Yên” và cách đặt “tên đất tên
làng”. Ông viết:
“Xã hội Việt Nam truyền thống lấy nghề nông trồng
lúa nước làm sinh kế, lấy văn hoá ưa ổn định làm nền tảng. Người dân Việt Nam
quen lấy sự yên ổn làm hạnh phúc. Lễ hội thường niên ở các làng quê Việt Nam là
lễ hội Kỳ Yên (= ‘Cầu An’). Rất phổ biến là các tên đất, tên làng thể hiện ước
vọng về một cuộc sống yên ổn. “Từ điển địa danh văn hoá và thắng cảnh Việt Nam”
ghi nhận 138 địa danh chứa yếu tố “An”, “Bình”, “Yên” (Nguyễn Như Ý, Nguyễn
Thành Chương, Bùi Thiết, 2004: 1158, 1163, 1215). Việc cung cấp một nguồn lực đảm
bảo cho sự ổn định định này là người thừa hành (người công cụ). Người thừa hành
là con người thụ động, yêu cầu này rất phù hợp với bản chất âm tính của văn hoá
Việt Nam […] Bản chất âm tính của văn hoá và người thừa hành là nguồn gốc của
căn bệnh thụ động khép kín, bảo thủ” (Trần Ngọc Thêm 2016: 349
– 352).
Chỉ trong một đoạn viết ngắn, nhưng ông Trần
Ngọc Thêm có nhiều điểm nhầm lẫn, suy diễn:
1-Lễ kỳ yên
không phải là “lễ hội”:
Lễ kỳ yên là lễ tế, với nghi thức lập đàn cầu
cúng, tổ chức trong phạm vi nhất định của làng xã. Trong khi “lễ hội” được hiểu
là cuộc vui chung có tổ chức, diễn ra các hoạt động lễ nghi mang tính văn hoá
truyền thống. “Lễ hội” mang tính chất mở, thu hút khách thập phương tham dự,
trong khi lễ tế, cụ thể lễ kỳ yên thường diễn ra trong phạm vi hẹp, theo kiểu
“chuông làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”.
2-“Kỳ yên” không
phải là cầu cho “ổn định”:
Lễ kỳ an hay kỳ yên không phải
là cầu cho “ổn định” (với nghĩa “thụ động”, “bảo thủ”, không có biến chuyển,
thay đổi nói chung), mà với mục đích tống tiễn ôn hoàng dịch lệ gây chết
chóc đau thương, đem lại bình an cho xóm làng.
Sách “Việt Nam phong tục” (Phan Kế
Bính) mục “Lễ kỳ an” viết: “Vào khoảng cuối Xuân đầu Hạ, nhiều nơi làm lễ kỳ
an. Vì mùa ấy thường có dịch khí, tục tin là việc quỉ thần, cho nên cúng cấp để
cầu cho dân làng được yên lành”.
Trong lễ kỳ yên, người ta lập đàn cúng tiễn thần
Ôn, hay Ôn chúa. Khi tiễn, thầy phù thuỷ tay cầm nắm hương hoặc bó lửa, thư phù
niệm chú, tay cầm ấn quyết triệt lộ, tiễn ra khỏi đầu làng, đầu chợ, ngã ba,
ngã bảy mới đốt, nghĩa là tống đi cho xa, kẻo sợ ôn dịch ở quanh quẩn trong
làng. Còn như bất thời có dịch khí lưu hành, dân làng nghe có nhiều người chết,
thì mua vàng hương hoa quả thiết đàn giữa sân đình, cúng tiễn ôn quan, gọi là lễ
tiến thảo (Phan Kế Bính – sách đã dẫn).
Vì lễ kỳ yên là lễ tống tiễn ôn hoàng dịch
lệ, nên người ta còn gọi là lễ cầu mát, “tống ôn, tống gió, lập
đàn-tràng cúng vào đầu mùa hè (ở Bắc) hoặc đầu tháng hai (ở Nam) để cầu gió thuận
mưa hoà, đưa hết bệnh-tật đi nơi khác.” (Việt Nam tự điển – Lê Văn Đức).
Xưa kia, ngoài lễ kỳ yên, hàng
năm còn có tuần đại tế gọi là tế kỳ phúc, tổ chức Xuân, Thu nhị kỳ,
cầu cho dân được bình an, hạnh phúc. Dĩ nhiên trong lễ tế kỳ phúc
có cả cầu cho tránh được dịch bệnh.
Nói một cách dễ hiểu, lễ kỳ an, kỳ
yên hay cầu mát đầu mùa dịch của dân ta xưa giống như biện pháp
“phòng dịch”, tiêm chủng ngừa cúm mùa hay dịch bệnh hiện nay vậy.
3- “An”, “Bình”,
“Yên”, không có nghĩa là “ổn định”:
Các “địa danh chứa yếu tố “An”,
“Bình”, “Yên”, cũng có nghĩa là bình an, hoà bình, yên ổn,
không chiến tranh loạn lạc, thiên tai địch họa, chứ không phải biểu hiện cho “bản
chất âm tính của văn hoá và người thừa hành là nguồn gốc của căn bệnh thụ động
khép kín, bảo thủ” của người Việt.
Bình an, hoà bình, yên ổn luôn là mong ước của mọi cư dân trên thế giới. Ngay cả với những cư
dân du mục “dương tính” thì họ cũng cần sự “yên ổn” theo cách của họ, chứ
không riêng gì cư dân “âm tính” trồng lúa nước. [**]
Như vậy, GS. Trần Ngọc Thêm đã nhầm lẫn giữa sự
trì trệ, chậm phát triển của “xã hội Việt Nam truyền thống lấy nghề
nông trồng lúa nước làm sinh kế”, với ước vọng về một cuộc sống bình yên,
không thiên tai dịch bệnh, không chiến tranh loạn lạc nói chung, thể hiện qua lễ
kỳ yên, và cách đặt tên đất tên làng có “chứa yếu tố “An”, “Bình”, “Yên”
của người Việt Nam.
Theo đây, sẽ không có gì đáng bàn cãi, nếu như
nhận xét “người dân Việt Nam quen lấy sự yên ổn làm hạnh phúc”, và “rất
phổ biến là các tên đất, tên làng thể hiện ước vọng về một cuộc sống yên ổn”,
không bị GS. Trần Ngọc Thêm gán cho “bản chất âm tính của văn hoá
và người thừa hành là nguồn gốc của căn bệnh thụ động khép kín, bảo thủ”.
Như vậy, trong tham luận “Xây dựng văn hoá
học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo”, ngoài suy diễn rồi
gán nghĩa tiêu cực cho hai chữ “trồng người” (trong câu “vì lợi ích trăm năm trồng
người”), việc giải thích ý nghĩa “kỳ yên”, “an”, “bình”, “yên” của GS.
Trần Ngọc Thêm cũng hoàn toàn mang tính chất võ đoán.
----------
Chú thích:
[*] Sau bài viết trao đổi “Về cách hiểu hai
chữ ‘trồng người’ của GS. Trần Ngọc Thêm”, độc giả V.H.M nhắn tin cho tôi,
bày tỏ e ngại rằng, báo chí đã thuật lại không đúng tinh thần lời phát biểu của
GS. Trần Ngọc Thêm. Và độc giả V.H.M gửi cho tôi toàn văn tham luận “Xây dựng
văn hoá học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo” của GS. Trần
Ngọc Thêm, nằm trong tập tài liệu “Hội thảo giáo dục Việt Nam 2021 – Văn hoá
học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo” (Quốc Hội Việt Nam –
Uỷ ban Văn hoá Giáo dục – Hà Nội, Tháng Mười Một 2021). Tuy nhiên, sau khi đọc
bản tham luận, tôi thấy những gì GS. Trần Ngọc Thêm chia sẻ với báo chí chính
là cụ thể hoá những điều Giáo sư đã trình bày tại hội thảo, chứ không có chuyện
sai khác.
[**] Khái niệm văn hoá “âm tính”, “dương tính”
là của GS. Trần Ngọc Thêm.
---------------
ĐỌC THÊM:
Giáo
sư Thêm (người đề xuất bỏ “Tiên học lễ…”): Ông “bớt” lại giùm chút!
Về
cách hiểu hai chữ “Trồng người”
No comments:
Post a Comment