BÚT
KÝ … VỪA ĐI ĐƯỜNG, VỪA KỂ CHUYỆN … (dài lắm)
https://www.facebook.com/giao.pham.127/posts/5305180532829273
(Bút ký
này chỉ là cái nhìn và sự nhận xét của cá nhân người viết, không được trả tiền
do bất cứ thế lực thù địch nào. Tác giả đã Đi, Đến, Nhìn, Nghe và Cảm Nhận
trong thời gian 2 năm 2018 và 2019 ở các quốc gia ĐNA. Thấy sao nói vậy, người
ơi. Có phật lòng hay đụng chạm đến ai thì … đành chịu!)
(1) CHUYỆN BUỒN của
ĐẤT NƯỚC.
Cuối tháng 10 vừa rồi, vợ chồng chúng tôi đổ
đường đi lên SAPA nơi mà chúng tôi đã có dự tính đến thăm trong nhiều năm trước
đây nhưng mãi tới bây giờ mới thực hiện được. Sau gần một giờ trèo non vượt suối,
chúng tôi đến được một ngôi chợ nhỏ nằm ngay biên giới của cái cột mốc, nơi mà
người Thượng kết nối được với người Kinh, ở trên một đỉnh núi cao cả ngàn mét.
Người ta mua bán, đổi chác cho nhau những thứ tối cần thiết mà các sắc tộc người
Thượng sinh sống ở tuốt mé bên kia những ngọn núi, phải leo trèo cả nửa ngày đường
nữa mới tới được.
Biết rằng khi mua sắm ở cái ngôi chợ đèo heo
hút gió này thì các món hàng sẽ bị vô cùng giới hạn nhưng không thể nào mua và
vác vào đây từ mãi ngoài chợ SAPA được nên đành chịu. Nhìn những đứa trẻ bé như
những cái kẹo và nhem nhuốc tự động chăm sóc lẫn cho nhau, để bố mẹ bương chải
mưu sinh thấy đến tội. Mà thật đúng như những hình ảnh người Kinh thường chiếu ở
đây, có đến một nửa số bọn nhãi, mặc áo lạnh nhưng lại cởi truồng, chẳng biết
vì lẽ gì. Thế là chỉ có 2 thứ được chúng tôi để mắt đến, bánh kẹo và mì gói. Trẻ
con đứa nào lại chẳng mê mì gói và bánh kẹo!
Cô: “Mì gói bao nhiêu một thùng cháu?”
Con bé bán hàng người Dao trắng trẻo tuổi độ
14-15 lễ phép trả lời: “120 nghìn một thùng thưa cô.”
Cô: “Kẹo này bao nhiêu một bao? Có bao nhiêu
cái hả cháu?”
Con bé bán hàng: “Một bao có 100 cái, giá 100
nghìn thưa cô.”
Cô: “Nói thách quá, cô chú đi hàng khác đấy!”
Tôi hỏi thêm: “Những mặt hàng này sản xuất từ
Trung Quốc à cháu? Sao giá lại mắc vậy?”
Con bé bán hàng có vẻ quả quyết nhưng nhỏ nhẹ
trả lời: “Không chú ạ. Chúng cháu không bán những loại thức ăn Trung Quốc. Đắt
là vì mì gói thì sản xuất trong Sài Gòn. Kẹo là hàng của Thái Lan. Bánh ngọt thì
của Nam Dương chú ạ. Chúng cháu không bán hàng Trung Quốc vì các cô chú mua để
phát cho bọn trẻ con ở các buôn làng, mà bọn trẻ con có ai khác ngoài con cháu
của chúng cháu …”
Câu nói của con bé bán hàng người Dao cứ luẩn
quẩn mãi trong đầu tôi đến bây giờ mỗi khi nghĩ lại:
“bọn trẻ con có ai khác ngoài con cháu của
chúng cháu …”
Ấy vậy mà người Kinh lại luôn mồm tự hào là
mình khôn ngoan hơn người Thượng …
(2) NGƯỜI VIỆT –
NGƯỜI THÁI.
Hai vợ chồng tôi đi du lịch thường mướn nguyên
căn hộ qua hai cái công ty mang tên AirBnB hoặc VRBO. Giá cả cũng tùy, nhưng nếu
đi đông khoảng 4 người trở lên là lợi nhất và cũng rẻ hơn mướn khách sạn. Bên cạnh
đó, chúng tôi lại là những người không mấy gì thích ăn đồ ăn bán ngoài đường,
nhất là cái dạng “món ăn đường phố a.k.a street foods” vì rất nhiều dầu mỡ và
các thứ phụ gia.
Chúng tôi lại là những người ăn 80% rau củ quả,
10 % thịt cá và 10% gạo, bánh mì, và tinh bột, nên chuyện ăn ngoài đường hầu
như không thể có được chọn lựa vừa ý, nên việc mướn căn hộ có bếp để tự nấu ăn
là tiện hơn cả. Các căn hộ cho mướn ngày nay thường khá mới và đầy đủ tiện
nghi, loại nhỏ thì từ studio đến 1 phòng ngủ và có cả những cái 2-3-4 phòng ngủ
hoặc nhiều nữa thì mướn nguyên cả cái biệt thự lớn là chuyện rất thường.
Một ngày kia hai vợ chồng tôi đi chợ ở một cái
siêu thị thuộc một chi nhánh chuỗi siêu thị khá lớn ở Sài Gòn. Đi trước chúng
tôi là 2 người phụ nữ trẻ, mang dáng dấp và trang phục của Việt Kiều. Vừa vào tới
cửa chợ, một bác bảo vệ ra “đòi hỏi” một trong hai người phụ nữ phải để cái bóp
đầm bé cỡ hơn bàn tay của cô ta lại ở quầy cho ông ta giữ.
Người phụ nữ không chịu: “Cái bóp có chút xíu,
tui đã để đầy kín những thứ đồ xài rồi, nhét vào đó 1 cái kẹo cũng không có chỗ
…”.
Nhân viên bảo vệ: “Chủ trương của hệ thống
siêu thị chúng tôi là vậy. Ai đi vào cũng phải vậy. Túi xách lớn nhỏ gì cũng phải
bỏ lại cho chúng tôi giữ”.
Người phụ nữ khó chịu thấy rõ: “Ông có biết
cái bóp này giá gần 2 ngàn đô không? Ông hay chợ có chịu trách nhiệm nếu bị mất
hoặc bị đánh tráo hoặc bị trầy sước hư hại không?”
Nhân viên bảo vệ xuống nước: “Nếu cô không chịu
gởi lại đây, thì ít ra cô cũng phải để tôi dán miếng băng keo vào miệng bóp”.
Người phụ nữ dường như đã chịu hết nổi: “Ông
đòi dán cái thứ băng keo đó vào cái bóp đầm này của tôi ư?” Bà ta nói như hét một
cách tức tối bằng tiếng Anh: “What the heck. Forget it.” Thế rồi hai người phụ
nữ vùng vằng dắt nhau ra khỏi chợ.
Thấy chúng tôi vẫn còn kiên nhẫn mục kích cảnh
tượng đó, ông bảo vệ nói như phân bua: “Thời buổi này không tin ai được, vào
siêu thị ăn trộm ăn cắp như rươi. Càng ăn mặc đẹp thì lại càng ăn cắp tợn hơn!”
Tôi chỉ mỉm cười tỏ vẻ thông cảm nhưng chẳng
nói gì, mặc dù không quen với cảnh này.
***
Chúng tôi ghé Bangkok lần này là lần thứ tư và
biết Bangkok gần như là biết Sài Gòn. Nhớ lại lần đầu tiên ghé đây vào năm 1993
(đánh máy đúng chứ không có lộn đâu) mà đến nay nhìn lại sau mấy chục năm, nó vẫn
thế, chỉ có phát triển và đông đúc thêm mà thôi. Chúng tôi thích đi lang thang ở
những khu shopping, tuy không mua sắm gì bao giờ ngoài vài chai dầu gió nổi tiếng
hiệu ông già của Thái. Thời giờ đi ngắm những gian hàng trong các khu ăn uống lại
càng thích hơn tuy chẳng mấy khi chúng tôi ăn uống ở những nơi này.
Tận mắt nhìn thấy ở tất cả các shopping malls
hoặc ở các siêu thị lớn ở Bangkok thì mới thấy một điều lạ lùng là “Không Một
Nhân Viên Bảo Vệ Nào Ở Những Khu Vực Này Hỏi Giữ Giỏ Xách Của Người Đi Mua Sắm
Cả”. Mặc dù tôi thường đeo ở vai một cái giỏ xách khá to. Nếu muốn ăn trộm ăn cắp
thì cũng chất được khá nhiều đồ. Ngay cả ở những cái malls lớn như MBK, Central
World hay Platinum Mall cũng chẳng có bất kỳ ai hỏi giữ giỏ xách của khách
hàng.
Ngay cả cái Big C Supercenter ở Rajadamri nơi
mà những chuyến xe bus khổng lồ đổ những đoàn du khách Trung Quốc và những
tours du lịch đổ khách Việt Nam xuống đây hàng ngày cũng vậy. Họ mua sắm những
mặt hàng gia dụng và thực phẩm mang về nước nhiều đến độ mà tôi nhìn vào cứ tưởng
là sẽ có một trận phong ba bão tố khủng khiếp như trận Đại Hồng Thủy xảy ra
trong nay mai. Họ mua đồ, đóng thùng mang về nước nhìn như là tận thế sẽ đến
vào cuối năm nay vậy. Vậy mà, chớ có một người bị giữ lại để hỏi gởi túi xách.
Người dân Việt mình có tính hay đổ thừa.
Chẳng lẽ bản tính ăn gian, nói dối, ăn trộm,
ăn cắp người ta cũng đổ thừa, đổ lỗi cho chính sách hoặc do chủ thuyết Cộng Sản
nó biến đổi được chăng?
Vậy thì giáo dục ở gia đình người ta để đâu nhỉ?
Hay lại phải mượn lời của cái ông lãnh đạo
thích ný nuận thường nói: “mình phải có thế nào người ta mới thế chứ”.
Lòng tin đánh mất đi rồi thì làm sao lấy lại?
(3) NHỮNG MẨU VỤN
LƯỢM LẶT.
Đàn ông Thái, đàn ông Mã Lai và đàn ông Lào
“dường như” chăm chỉ và chí thú làm ăn, lo cho gia đình của họ hơn đàn ông của
Bộ Tộc Vệ rất nhiều. Không có gì lạ, khi khách du lịch bắt gặp khá đông đàn ông
Xứ Vệ tiêu xài thời giờ ở các quán cà phê mỗi buổi sáng và ở các quán nhậu mỗi
buổi tối hết sức phí phạm.
Chẳng những thế, đàn ông Xứ Vệ thường tự hào từ
chối một cách bỉ bôi rằng những công việc như trông con, rửa chén và phụ các
công việc nhà là việc chỉ “dành cho bọn đàn bà”. Rất hiếm thấy đàn ông Xứ Vệ đứng
ra làm những công việc buôn hàng bán quán ngoài chợ. Có tới hơn 80% những công
việc buôn bán sinh nhai hàng ngày, bất kể lớn nhỏ nào ở Xứ Vệ, cũng đều do tay
người phụ nữ đảm trách.
(Tôi biết, tôi biết là thế nào cũng có mấy anh
tự ái nói rằng "bây giờ đã đỡ nhiều rồi ...", bởi vậy, tôi mới chừa lại
20% đó)
Chả thế mà ca dao ở Xứ Vệ mới có câu nghe đến
thương:
Thân Cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo … nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non …
Chẳng hiểu những “tấm chồng” kia ăn cái giống
gì để đến bị … bại liệt mà phải để Cò gánh gạo về nuôi thế nhỉ?
Không như ai kia, khách du lịch có thể thấy rất
thường, những người đàn ông Thái, đàn ông Mã Lai đứng bán hoặc chạy hàng ở những
quán ăn bên đường, hoặc bán rau, bán tôm, bán cá phụ giúp cho vợ ngoài chợ. Nếu
nhìn cho kỹ, thì những người đàn ông này, đúng là rường cột của gia đình. Họ là
cây cột chính, đội cái sức nặng của cái nóc nhà, vợ con họ chỉ là những cái đà
ngang đà dọc phụ đỡ thêm mà thôi. Ngược lại với những người đàn ông ở Bộ Tộc Vệ,
cái cánh đàn ông ở Thái và ở Mã Lai, đứng ra gồng gánh, nai lưng làm tất tần tật,
hầu như tất cả mọi việc, từ những công việc khó nhọc nặng nề “dành cho bọn đàn
ông”, cho tới những công việc li ti nhỏ nhặt, chỉ “dành cho bọn đàn bà”.
Lại nữa, vô cùng khó, gần như là không thể, để
mà tìm thấy đàn ông Thái, đàn ông Mã Lai tụm năm túm ba lãng phí thời giờ ngoài
quán cà phê, ngoài những gốc cây hoặc dưới bóng mát của vỉa hè trong giờ làm việc,
chứ đừng nói tụ tập lãng phí thời giờ và tiền bạc ngoài các quán nhậu. Không
như ở Xứ Vệ, du khách tìm thấy các quán nhậu, các quán bar ở Thái, ở Mã Lai là
những nơi chỉ dành riêng cho khách du lịch và khách Tây mà thôi, đàn ông bản xứ
không thấy bén mảng tới những nơi này.
Nói tóm lại và nói chung chung thì đàn ông cái
Xứ Vệ quả là “may mắn” vì họ sanh ra đời ở một đất nước mà cái “hậu quả tàn khốc”
của cuộc chiến, vẫn còn để lại tàn dư mãi cho tới gần nửa thế kỷ sau đó. Cái “Nạn
Trai Thiếu Gái Thừa”, cái lối suy nghĩ “Sanh 10 Đứa Con Gái Chưa Bằng Sanh Được
Một Thằng Quý Tử” của thời xa xưa, nó đã ăn sâu vào nền giáo dục, vào cách ăn ở
cho mãi tới ngày hôm nay. Mặc dù 45 năm sau cuộc chiến, cái nạn gái thiếu trai
thừa đã trở thành đại nạn cho cánh đàn ông nhưng cái suy nghĩ như một loại bịnh
di căn chưa có thuốc chữa này vẫn còn đó. Đàn ông Xứ Vệ sẵn sàng ở vậy nuôi
thân còn hơn phải xuống nước chấp nhận làm những công việc chỉ “dành cho bọn
đàn bà”. Ta thà ế chứ nhất định không thể như thế.
Chả trách đàn bà con gái của Xứ Vệ giờ chỉ
sính chồng ngoại! Thôi thì:
Thà rằng mang tiếng ế chồng,
Còn hơn lấy phải thằng không ra hồn!
Tối nay, hẵng cứ nhậu cái đã, xem thời thế nó
biến đổi ra sao, ngày mai mới tính.
***
Tình cờ một lần kia, chúng tôi ghé vào một tiệm
ăn nho nhỏ, mới khám phá ra cô chủ quán là một cô gái gốc Đà Nẵng qua Mã Lai lấy
chồng có con ở đây, vợ chồng làm chủ cái tiệm ăn này, kể về “thằng chồng Mã Lai
có gốc Tàu Đài Loan” của mình một cách hết sức hãnh diện: “Ôi, cái thằng này nó
hiền khô à chú. Mấy ông Việt Nam khỏi có cửa so sánh đi. Ở nhà việc lớn việc nhỏ
gì cũng một tay nó. Ra tiệm việc trong bếp, việc ngoài đường gì cũng một tay
nó”.
“Con hả chú, hì hì, chỉ có đi ra đi vô thu tiền
rồi lo cho thằng nhỏ này,” chỉ tay vào thằng cu chừng 2 tuổi, cổ tiếp một hơi:
“Chả không hút thuốc, không uống rượu, lâu lâu hỏi vợ cho phép kéo về nhà mấy
thằng bạn, làm người 1-2 chai bia, không bao giờ uống hơn, mà cũng không bao giờ
ra quán.
Mỗi năm, ổng để 2 mẹ con con về thăm gia đình
đôi ba bận, đến Tết mình thì ổng để tiệm nhờ người chị lo, vợ chồng con cái kéo
nhau về thăm bên ngoại độ chục ngày. Đồ ăn Việt Nam cái gì cũng ăn được, chỉ có
nhậu là không. Thương lắm luôn”. Rồi cổ tiếp luôn một câu kết thúc câu chuyện
mà hai vợ chồng tôi suy nghĩ mãi đến cả chục bữa sau mà vẫn chưa hiểu ra:
“Phụ nữ Mã Lai nó ghét và sợ phụ nữ Việt Nam
ghê lắm … Họ Sợ Con Gái Việt Mình Sang Đây, Giựt Hết Đàn Ông Mã Lai Của Họ!”
Không lẽ đàn ông Mã Lai có giá đến vậy cơ à?
Mà chẳng lẽ phụ nữ Việt mình lại không còn có
sự chọn lựa nào khác?
(4) THÂN PHẬN NHỮNG
CÂY CẦU CHỊU QUÁ TẢI.
Con bé nhìn còn trẻ lắm, chắc chỉ ngoài 20 một
tí là nhiều, địu đứa bé chỉ được vài tháng tuổi, ngủ oặt ẹo trước ngực, tay dắt
một đứa bé gái khác chắc chưa tới 2 tuổi đầu, tay kia kéo theo cái valise to tổ
bố, đã thế, vai lại đeo một cái giỏ xách rõ to, có lẽ đựng quần áo và sữa tã
cho con. Cứ thế mà nó lôi, cõng, kéo con đi thoăn thoắt qua cái đoàn người rồng
rắn chờ làm các thủ tục hải quan ở phi trường.
Trong đoàn người đứng xếp hàng đó lại có một
cô gái trẻ khác, chỉ độ trên dưới 25 tuổi, nhan sắc trên trung bình, dáng người
cao ráo và gọn ghẽ, cười nhí nhảnh với một “ông Tây” có lẽ phải ngoài năm chục,
tướng phì phệ, bụng to như cái trống, tạng người ít hoạt động, ăn no ngồi ỳ trước
cái TV. Cứ một chốc, hai người lại hôn môi nhau một cách tình tứ và say đắm, dường
như muốn tỏ ra thái độ bất cần của một cặp nam nữ sống trong thời buổi văn
minh, hoặc hai người đang trong thời kỳ yêu đương ... quá độ, muốn thông báo
cho cả thế giới biết tình yêu tràn lan không giới hạn của mình. Cứ nhìn bộ dạng
và những đồ nghề lỉnh kỉnh họ kéo theo thì có lẽ người đàn ông thuộc dạng đại
gia lắm tiền nhiều của.
Trong cái bối cảnh lộn xộn ấy ở phi trường,
tôi chứng kiến có đến hơn 1/2 số người chen chúc nhau “làm thủ tục đi ra nước
ngoài” hoặc “trở về nơi họ đang tạm cư ở các quốc gia quanh vùng" với những
người chồng không cùng ngôn ngữ, là những người phụ nữ trẻ Việt Nam. Cứ nhìn
cái phong cách họ ăn mặc, những mốt quần áo, đầu tóc đủ kiểu, thì người ta có
thể đoán ra “họ sẽ trở về đâu”.
Không khó để nhận ra có những mốt quần áo thời
trang cóp nhặt của các ngôi sao Nam Hàn, của các ngôi sao Nhật Bản, của các tài
tử Hong Kong, Đài Loan, Thái, Mã Lai hoặc các mốt quần áo lèng xèng của dân Úc.
Các kiểu tóc, các kiểu mũ nón, các kiểu giỏ xách đều có những sự khác biệt với
những sắc thái riêng của mỗi quốc gia lân cận, quanh Việt Nam. Cũng không khó để
nhận ra cái mức sống giàu nghèo của họ qua những thứ đồ tư trang lỉnh kỉnh mà họ
đeo mang trên người.
Qua các trạm kiểm soát, xong các thứ thủ tục,
những người phụ nữ trẻ này túa ra trên những chuyến bay đi khắp nơi. Bên cạnh
tiếng mẹ đẻ, họ còn nói được tiếng Hàn, tiếng Trung, tiếng Thái, tiếng Mã Lai,
tiếng Anh, những thứ ngôn ngữ nơi họ đang sinh sống. Phần đông trong bọn họ, ai
cũng mang một nét ưu tư lộ hẳn ra trên mặt. Họ phải tạm biệt cái mảnh đất èo uột
khô cằn nơi họ đã sinh ra và lớn lên. Họ phải từ giã những người thân yêu qua
thời gian viếng thăm ngắn ngủi. Họ lại phải trở về với cuộc sống làm dâu, của
người con gái lấy chồng nơi xứ lạ.
Người con gái Việt Nam mang trong mình 2 cái
trọng trách nặng đến oằn vai.
Cuộc sống bên nhà chồng với những công việc mà
họ đã “được mướn” trong những cái giao kèo ngầm không có giới hạn thời gian,
không có điều kiện đòi hỏi rõ ràng trên giấy trắng mực đen, cái giao kèo đó, chỉ
đơn giản là tấm giấy hôn thú. Những món tiền họ "được thưởng", những
lần được phép về thăm gia đình, nó cũng chẳng khác "các loại tiền tips, tiền
boa" tùy theo thái độ và cung cách họ phục vụ nhà chồng. Gánh nặng của kiếp
“đẻ mướn” nuôi con như những chị tò vò luôn được đi chung với những trách nhiệm
nặng nề của thân phận tôi đòi phục vụ người khác với những tình cảm bắt buộc.
Cuộc sống bên nhà mình với cái trọng trách đã
được gia đình gởi gấm qua những cuộc “hôn nhân trao đổi”, những gánh nặng tài
chánh phải lo cho cha mẹ già, lo cho đàn em thơ, với những căn nhà lầu cao tầng
đổ bê tông mấy tấm nằm chơ vơ lạc lõng ở thôn quê.
Cứ thế, những người phụ nữ trẻ này, gánh trên
đôi vai những gánh nặng mà chỉ có tấm lòng cao thượng, tình yêu thương vô bờ bến,
mới có thể vực họ dậy được sau mỗi lần mệt mỏi muốn ngã quỵ trong đơn độc, một
thân một mình nơi xứ người. Hạnh phúc của họ nó quá là nhỏ nhoi, nó chẳng có gì
khác ngoài những đứa con phải mang cho gia đình chồng, qua cái kết quả của những
cuộc hôn nhân gượng ép, không thương yêu nhưng vẫn phải lấy, may ra thì đổi lấy
được một cuộc sống tạm đủ về tài chánh.
Niềm vui của những người phụ nữ trẻ này, chẳng
có gì khác ngoài những lời trầm trồ khen ngợi của chòm xóm láng giềng, qua những
gì họ ki cóp đem về quê cho gia đình, căn nhà xây mấy tầng rộng rãi, cái TV màn
ảnh phẳng “to đùng” để ở giữa nhà, những chiếc xe gắn máy cao cấp mới cáo cạnh,
những bữa tiệc liên hoan đãi đằng bà con lối xóm trong các dịp lễ giỗ. Tất cả
những thứ mà gia đình cô gái đó có được hôm nay, cũng là để trả lại cái công ơn
sinh thành mà họ đã không được phép có ý kiến đóng góp khi bà mẹ họ thụ thai.
Nhìn những mảnh đời bôn ba của những người phụ
nữ trẻ này ngoài phi trường, lòng tôi chợt quặn thắt lại với một nỗi buồn day dứt
khó tả.
Cái hình ảnh quê hương là chùm khế ngọt tự
dưng nó đắng chát ở cổ họng. Bất chợt trong đầu tôi lại văng vẳng mấy câu ru
con mà tôi đã từng nghe mấy chục năm trước khi còn trẻ ở quê nhà:
Má ơi, đừng gả con xa …
Chim kêu vượn hú … à, chim kêu vượn hú, biết
nhà má … đâu?
(5) NHỮNG MẢNH ĐỜI
BÔN BA TRÔI DẠT.
When I was young, I thought the world was full
of love.
Ngày còn trẻ, tôi tưởng thế giới chỉ có tình
yêu.
What did I know?
Now I am old …
Năm ngoái, chúng tôi đi “sống thử” ở một vùng
đất không phải là “Chùm Khế Ngọt”, thuộc vùng cực Bắc trên đất Thái, mang tên
Chiang Mai, vì nghĩ, biết đâu vài năm nữa khi về già, lại chẳng muốn tìm cho
mình một nơi vắng vẻ. Chán chê, chúng tôi chạy qua Kanchanaburi, một cái thị trấn
nhỏ, yên bình nằm sát biên giới Thái và Miến Điện, nơi có cây cầu bắc ngang qua
dòng sông Kwai nổi tiếng trong trận Đệ Nhị Thế Chiến. Ở đó sau một thời gian, lại
chán, chúng tôi đáp máy bay qua miền cực Bắc của Lào mang tên Luang Prabang
giáp biên giới với Trung Quốc.
Khi đi du lịch bụi, chúng tôi thường đến trú
ngụ ở các hang cùng ngõ hẻm của dân lao động bản xứ, để biết thêm một chút về
cuộc sống thực của họ. Đối với chúng tôi, du lịch không chỉ là đến những thủ đô
đầy bụi bặm hoặc những thành phố đông nghẹt những người, với đầy đủ mọi tiện
ích nếu chịu móc bóp ra chi tiền, để ăn chơi và hưởng thụ. Tôi thích những sự
việc bất ngờ, xảy ra ngoài những gì mình tính toán. Tôi thích những tình huống
bất chợt, bắt buộc mình phải xoay sở để giải quyết. Tuy nhiên những “gián đoạn
và bất trắc kia, khó mà làm tôi e dè hay nản chí”. Chẳng phải cuộc đời luôn dẫn
ta đến những cái … không thể tiên đoán trước được?
Năm nay, chúng tôi trở lại đất Thái, không định
trước, loay hoay quay đi quay lại, thế mà đã ở lại Bangkok gần tháng trời.
Chán, chúng tôi dời nhà đến “sống thử” ở một vùng đất hẻo lánh cao nguyên hướng
Đông Bắc, cách Bangkok độ chừng 600 cây số, mang tên Udon Thani. Cái quận lỵ nhỏ
xíu này, chỉ cách thủ đô Vạn Tượng của Lào độ 70 cây số. Khí hậu mát mẻ, dân số
thưa thớt, không khí khá trong lành.
Ở nơi này chúng tôi đã vô tình chứng kiến những
giọt nước mắt đọng quanh mi, những tiếng nấc nghẹn cố gắng lắm mới giữ lại được
trong cổ họng của những người con dân đất Việt xa xứ, những người anh em đồng
hương, tiếng Thái giỏi hơn tiếng Việt. Những người Việt trên giấy tờ nếu có,
không còn mang những cái tên thân quen Trung, Dũng, Hằng, Mai, Hoàng nữa mà
thay vào đó bằng những cái tên lạ lẫm Apinya, Daw, Chakrii, Anong, Malee,
Paithoon của một thứ ngôn ngữ xa lạ. Họ phải suy nghĩ lắm mới tìm ra được những
chữ tiếng Việt, còn nằm sót lại ở đâu đó trong tận sâu thẳm của ký ức, để ráp lại
thành những câu nói gượng gạo, khó hiểu, còn thua cả những trẻ em gốc Việt sinh
ra ở bên Mỹ.
Hai vợ chồng tôi ghé một gian hàng bán trái
cây nằm bên con đường chính dẫn vào trung tâm thị xã Udon Thani, ngay bên kia
đường của căn hộ mà chúng tôi mướn. Nhìn những thứ trái cây bày bán được sắp xếp
cẩn thận, có gắn giá đàng hoàng cho mỗi kg và cái giá thì thực là khá rẻ, rẻ
hơn ở Việt Nam một nửa, tôi chợt buột miệng nói bằng tiếng Việt với vợ:
“Trời, giá rẻ quá, không biết có chích thuốc
hay nhúng hóa chất không đây?”
Người đàn ông trạc 40-45 tuổi đứng bán hàng buột
miệng, nhăn mặt trả lời chúng tôi bằng tiếng Việt “broken”, thiếu âm sắc khiến
câu cú khá khó hiểu khi chưa nghe quen:
“Không bác ơi, không chích thuốc, không … chất
hóa học!”
Tôi khựng người: “Ồ, xin lỗi bác, bác cũng là
người Việt à?” thế nhưng, nhìn lại khuôn mặt của anh ta, khó mà đoán được anh
ta không phải người Thái. Chẳng lẽ ăn đồ ăn Thái, uống nước Thái và nói tiếng
Thái, nó mang lại cho người đó cái sắc nhìn của người Thái xa lạ?
Sau một cuộc chuyện trò “tâm sự”, tôi mới biết
ra rằng anh ta và một số người Việt khá đông cư ngụ nhiều đời ở đây, có cha mẹ
là người Việt, vượt biên giới đến đây lập nghiệp từ lâu lắm rồi, có cả hơn nửa
thế kỷ trước. Có những người đến đây từ Lào, sau khi sinh sống ở đó một thời
gian. Có những người đi từ Việt Nam xuyên qua Lào rồi đến cư ngụ ở đây từ những
thập niên 1940s, 1950s, 1960s. Điều đặc biệt là Chỉ Có Người Miền Bắc chạy qua
đây sinh sống từ thuở đó.
Câu chuyện kéo dài, mỗi ngày một đoạn. Giờ tôi
mới biết rằng ở Udon Thani, con số người Việt nhập cư sinh sống cũng khá đông đảo.
Có điều, gần như không thể nào có thể nhận ra sự khác biệt giữa người Việt và
người địa phương qua cái nhìn, qua khuôn mặt. Nhờ việc tình cờ quen biết với anh
bán trái cây này, chúng tôi đã tìm ra được giải pháp.
Đi chợ, đi mua hàng, đi mua thức ăn, tôi có
cách này để tìm ra họ là người Việt, dễ lắm, chỉ việc làm bộ hỏi vợ bâng quơ những
câu:
“Không biết trái cây này có tẩm hóa chất không
nhỉ?” hoặc,
“Bánh, kẹo này không biết có ngọt quá không, sợ
ăn không tốt?” hoặc,
“Không biết họ có bán đồ cũ của ngày hôm qua
còn sót lại không?” hoặc,
“Không biết có phải hàng nhập sang từ Trung Quốc
không?” và nếu người bán hàng là người gốc Việt, thì thế nào cũng nhận được những
câu trả lời “với ngôn ngữ tiếng Việt ngây ngô” ngay.
***
Những giọt nước mắt của chị bán khoai lang và chuối
chiên.
Sau khi làm quen và được tôi hỏi là tại sao bố
mẹ chị gốc người Việt lại không dạy cho chị tiếng Việt đâu ra đó, mà để ngữ vựng
tiếng Việt của chị quá ít, phát âm tiếng mẹ đẻ quá cứng, câu cú đặt quá sai văn
phạm, thì những gì chị ta trả lời đã khiến chúng tôi hết sức ngỡ ngàng và xót
xa, thương cảm cho phận số của những người Việt bôn ba xa xứ, những con chim lạc
đàn xa tổ, những phận số đau buồn của những đứa con phải bị gậy tha phương cầu
thực nơi xứ người, mà chúng nó không có sự chọn lựa. Câu chuyện này không chỉ của
riêng chị bán khoai chiên chuối chiên này, nhưng là của phần đông người Việt ở
đây.
Chị kể lại bằng cái tiếng Việt lơ lớ, thiếu ngữ
vựng và sai bét be về văn phạm, qua những giọt nước mắt đọng nhẹ quanh mi:
Chúng em lớn lên ở đây, ngay khi còn bé lắm, bố
mẹ đã dạy cho nói tiếng Việt, ít ít thôi, ở trong nhà nhưng cấm chúng em nói tiếng
Việt ở ngoài đường. Cảnh sát Thái thấy mình nói tiếng Việt là bắt ngay. Bố mẹ
chúng em qua đây ở lậu mà. Không, không được nói tiếng Việt, lớn lên một chút,
chỉ nói tiếng Thái thôi, ở nhà không còn nói tiếng Việt nữa!
Thế thì không có giấy tờ à?
Không có giấy tờ. Em không có đẻ ở nhà thương.
Ở đây nhiều người Việt lắm nhưng chẳng bao giờ nói với nhau bằng tiếng Việt, chỉ
có nói ít ít ở trong nhà thôi. Có nhiều đứa người Việt nhưng không biết nói tiếng
Việt.
Thế sao bây giờ lại dám nói tiếng Việt với
chúng tôi?
Gần đây thì đỡ rồi. Chính phủ cho làm giấy tờ
những ai sanh đẻ ở đây, nhưng chúng em vẫn không nói tiếng Việt với nhau đâu.
Xuống đến đời chúng em, không còn ai dạy cho con cái tiếng Việt nữa, mà cũng chẳng
biết nhiều để mà dạy. Tiếng Thái thôi. Em có tên tiếng Việt nhưng không có
trong giấy tờ. Mấy đứa con em thì chỉ có tên Thái. Bây giờ thì đỡ rồi, chính phủ
tốt rồi.
Vậy thì em có giấy tờ đàng hoàng, không phải
dân ở lậu?
Em có giấy tờ. Nhiều người có giấy tờ nhưng
cũng có nhiều người không có giấy tờ. Cảnh sát Thái bây giờ cũng dễ rồi. Đừng
pham tội, đừng say rượu thì họ tha. Em sống ở đây hơn 30 tuổi không có giấy tờ.
Mới có giấy tờ hơn mười năm nay thôi.
Thế sao em không dạy cho con em những tiếng Việt
mà em biết như đang nói chuyện với anh chị đây?
Chồng em nó không cho. Tiếng Việt để làm cái
gì. Tiếng Việt để được cái gì. Em chưa có nói chuyện tiếng Việt nhiều như này với
ai, cần suy nghĩ lắm mới nhớ được chữ tiếng Việt!
Tôi có thể thấy được những nét đăm chiêu, những
hồi tưởng về dĩ vãng xa xôi, những trăn trở, chợt đến chợt đi trong trí nhớ của
người đàn bà qua những giọt nước mắt chơm chớm ở quanh mi, rồi chợt tan biến
như sương chiều.
Cũng may, gánh hàng khoai và chuối của chị
không còn nhiều, chứ không chúng tôi phải ăn cũng mệt. Khoai chiên và chuối
chiên của người Thái hơi khác của người Việt mình bởi họ rắc thêm vào đó ít hạt
mè đen, vỏ bột bọc bên ngoài khô hơn, cứng hơn và chuối thì lại chiên chuối hơi
sống, nhỏ và khô xác xơ chứ không chiên cả quả khổng lồ, chín nhừ như người
mình.
Chị ta lọng cọng, lúng túng bỏ vào bịch bánh mấy
cái bánh gì tròn tròn là lạ còn sót lại trong rổ, với những lời ngượng nghịu:
“Cho, mấy cái này cho,” lúng túng mãi như không tìm ra được chữ dùng cho đúng.
“Cho. Không lấy tiền.”
***
“Nỗi buồn” của anh có sạp bán trái cây ở khu chợ
đêm nổi tiếng UD Town.
Cái gian hàng bán trái cây ở đầu chợ nhìn rất
tươi mát, có nhiều thứ trái cây chín mọng, nhìn bắt mắt hơn những gian hàng
khác ở chung quanh. Có những vỉ trái cây được bóc và bọc lại cẩn thận mà giá
cũng khá phải chăng. Tự nhiên thèm bưởi khi thấy những trái bưởi da xanh ruột
tím chất cao như núi. Anh chàng bán trái cây chắc cũng độ trên dưới 35 tuổi
nhìn cách ăn mặc khá giống người Việt ở trong nước, hơi diêm dúa cho cánh đàn
ông. Chiêu cũ lôi ra xài lại, tôi quay qua nói với vợ, lớn đủ để anh ta nghe thấy:
“Cái sạp này trái cây nhìn ngon nhất ở đây, chỉ sợ trái cây nhập từ Trung Quốc!”
Anh chàng chủ sạp trả lời ngay một cách mau lẹ,
tự nhiên với loại “tiếng Việt trong sáng và chuẩn như người Hà Nội”:
“Không phải hàng nhập từ Trung Quốc đâu hai
bác ơi. Hàng hạng nhất, loại hàng cao cấp, hàng chuẩn của Thái đấy bác ạ”
Tôi được cái khéo bắt chuyện, trước lạ, chỉ 30
giây sau thành quen và sau chừng 15 phút thì trở thành bạn tâm giao từ khi cha
sanh mẹ đẻ ra tới giờ mới … gặp mặt. Chỉ sau vài câu tâm sự, anh ta kể hết nguồn
cơn. Sau câu chuyện, chúng tôi mới … thì ra thế, thảo nào tiếng Việt của anh ấy
“chuẩn” đến vậy.
Ồ, em người Hà Nội. Qua đây cũng 6 năm rồi. Em
ở lậu, ở lại luôn sau khi quá hạn visa.
Không sợ bị bắt đuổi về à?
Không, chẳng sợ cái chó gì bác ạ. Tháng nào
cũng phải đóng tiền cho chúng nó. Không ít đâu bác ạ, mỗi tháng, để coi nào,
cũng hơn 3 triệu rưỡi tiền Việt mình, nhẩm ra cũng trăm sáu trăm bẩy chục đô chứ
ít gì. Chúng em bao tất. Sạp bán hàng cũng có, mà giấy tờ chủ quyền cũng có người
đứng cho, cái khoản này phải trả riêng đấy nhé. Chẳng đứa nào làm khó khăn gì cả.
Cứ đấm tiền vào mồm chúng nó là xong hết thôi bác.
Thế chú đã có gia đình, vợ con gì chưa?
Có rồi anh, vợ 3 con. Rồi anh ta huyên thuyên
tiếp: Vợ con thì vẫn còn sống với ông bà nội ở Hà Nội. Một năm cũng sang đây
thăm em được vài tuần rồi về.
Chú có về lại Hà Nội lần nào chưa? Bao lâu rồi?
Chưa anh ạ, cũng hơn 6 năm rồi. Vợ con sang
thăm thôi chứ em thì chưa về lần nào. Để ít thời gian nữa làm ăn khá lên, kiếm
cách làm giấy tờ cho nó hợp lệ, thì lúc đó mới tính.
Vậy thì bên đây sống một mình, chắc buồn chết?
Buồn gì mà buồn ông anh? Thanh niên độc thân tạm
mà, chỗ nào chả xáp lại được dăm ba tuần hay đôi ba tháng? Cười cười một cách
bí hiểm.
Câu chuyện đang râm ran thì có mấy người khách
đến mua hàng. Tiếc, nhưng đành phải cắt ngang câu chuyện. Hai vợ chồng lựa được
vỉ bưởi bóc sẵn nhìn ngon lành lắm mà giá thì cũng rẻ, những múi bưởi căng tròn
nằm xếp lớp dầy bọc chặt trong lớp bao nylon cẩn thận. Định bụng thế nào rồi
mai cũng sẽ phải lội bộ xuống khu chợ đêm này tán chuyện với anh chàng đẹp giai
lại khéo kể chuyện này thêm vài lần cho thỏa nỗi tò mò về những câu chuyện
phiêu lưu thích thú như này.
Hơn tiếng đồng hồ sau, lội bộ về đến nhà trọ,
mở vỉ bưởi ra, thì hỡi ơi, độn ở dưới là một lớp dầy những ruột bưởi trắng như
bông nhìn giống y như cái vỉ trắng Styrofoam bên ngoài. Trên mặt được phủ và xếp
một cách hết sức khéo léo, đúng 5 múi bưởi, che kín phần ruột bưởi độn bên dưới.
Hai vợ chồng nhìn nhau, không nói, nhưng dường như đang hiểu ngầm với nhau rằng,
có lẽ phải quên đi cái dự tính gặp lại anh bán bưởi lần nữa.
Thấy thiên hạ, những người có "đầy kinh
nghiệm sống" dạy cho nhau rằng: "Đừng tin con mẹ bán rông, làm sao bằng
thằng đàn ông bán sạp"
Thuật lại hai câu chuyện không khó, không mất nhiều
thời giờ, nhưng mất cả tuần lễ, nặn đầu óc suy ngĩ mãi để kết luận mà vẫn không
ra. Thôi thì đặt tên cho nó là những mẩu chuyện không có phần kết luận.
(6) LỐI SỐNG và
CÁCH SỐNG của NGƯỜI VIỆT, THÁI, và MÃ LAI.
Tôi đến rồi đi, rồi trở lại Georgetown, Penang
cộng lại trong một thời gian khá dài, để có thể nói là mình biết khá rành rẽ về
hòn đảo này của Mã Lai, bởi nó cũng không lớn là bao. Chúng tôi mướn được một
căn nhà khá cũ ở Phố Cổ mặc dù nó đã được chủ tân trang lại ở bên trong, nhưng
có những phần họ vẫn giữ nguyên những gì họ đã xây dựng hơn 60 năm trước. Cầu
tiêu vẫn là cầu chồm hổm, hễ cứ thả một quả bom thì lại phải mau lẹ nhổm đít
lên, kẻo nước bên dưới văng ướt đít. Tắm vẫn là thùng chứa nước và cái ca nhựa.
Phòng ngủ là một cái gác lửng với cầu thang dựng đứng, xẩy chân một cái là … bỏ
mẹ mồ côi liền … Bên cạnh những thứ cổ đó, nó có một điểm hết sức tiện lợi là nằm
ngay chính giữa trung tâm, đi tới bất kể khu tham quan du lịch nào cũng chỉ
trong vòng trên dưới 2km, đi bộ nhiều lắm là hơn nửa tiếng đồng hồ. Cứ thế,
chúng tôi sáng vác ô đi, tối vác về, và cứ thế ngày nào cũng đi suốt.
Ngày thứ ba sau khi đến đây, chúng tôi đi tìm
đến một nơi mang tên Chan Jetty, một khu vực mà người ta làm nhà chòi ra mé bờ
biển, trước lậu, sau hợp pháp. Nó cũng không khác gì khu nhà chòi ra biển ở Phú
Quốc vậy. Thế nhưng, một điều vô cùng khác biệt đập vào mắt du khách, nếu họ có
dịp đi thăm “khu du lịch” nhà sàn trên bờ biển ở Penang và ở Phú Quốc là lối sống
và cách ăn ở của dân chúng hai nơi đó. Dân ở Phú Quốc phải nói là họ sống trên
những ổ rác khổng lồ, đủ loại rác, bẩn thỉu đến kinh tởm chứ không phải kinh hồn.
Người Việt ở trong nước ngày nay ăn ở dơ dáy đến khiếp. Phần đông, họ ăn đó, rồi
ỉa luôn ra đó. Nước dơ thì xả thẳng xuống gầm nhà sàn. Rác rưởi, bao nylon, đồ
ăn dư, cống xả từ các hàng quán và mọi thứ mà người dân sống trên những dãy nhà
sàn này xả ra, họ cho đi thẳng xuống bờ biển.
Mà ở những nơi này, bờ biển lại rất cạn, nước
không có sóng, không có thủy triều lên xuống, lâu ngày bãi biển trở thành một
màu xanh lờ lờ, như những vũng sình đang chuyển hóa, xông lên một mùi hôi thối
kinh khủng đến lợm giọng. Các loại rác không tiêu hủy ngay hoặc không bao giờ
tiêu hủy được như bao nylon, hộp Styrofoam, và các thứ kim loại phế thải, bị
trôi dạt và giữ lại ở trên những vùng cao sát bờ mà nước biển chỉ có thể chạy
vào đó xâm xấp, biến nó thành những đống rác thải gớm ghiếc, là những ổ chuột bọ
và các sinh vật nguy hại đến sức khỏe của người dân sinh sống ở đó, nhưng đối với
dân ở đây, dường như họ chẳng có gì phải tơ vương hay lo lắng. Mỗi khi mặt trời
lên cao, nắng nóng hấp lên tỏa ra những mùi hôi thối nồng nặc.
Ở Penang của Mã Lai thì ngược lại, hàng trăm
con người sinh sống trên những mái nhà sàn chòi ra biển, cộng với hàng ngàn du
khách đông nghẹt mỗi ngày, họ cũng buôn bán đầy đủ các loại đồ ăn thức uống cho
du khách vậy mà tuyệt nhiên KHÔNG CÓ MỘT CỌNG RÁC, bất kể thứ rác gì. Du khách
thấy vậy, bà cố cũng không dám xả rác, ngay cả bọn du khách Trung Quốc đến từ đại
lục cũng … bố bảo không dám. Còn ở Việt Nam thì thôi rồi, cư dân xả một, du
khách bắt chước xả hai ba. Ở Penang, cái thềm bờ biển sạch boong không một cọng
rác, không một mùi hôi gì khác ngoài cái mùi tanh nồng của gió và nước biển.
Ai đã từng từ những quốc gia khác đến những khu
phố đông đúc dân cư ở Việt Nam rồi thì hẳn biết điều này, đó là sự dơ dáy, lối
sống bẩn thỉu, dẫn đến sự hôi hám nhức lỗ mũi. Người dân Việt ở trong nước dường
như đã quen và miễn nhiễm với những mùi hôi hám này, riêng những người đến Việt
Nam từ những quốc gia khác, đều phải trợn mắt ngạc nhiên và cơ thể họ có những
phản ứng dữ dội như nghẹt mũi, khó thở, dị ứng ngay lập tức …
Tôi nhận xét thấy được điều này là: Thủ đô
Kuala Lumpur của Mã Lai sạch hơn thủ đô Bangkok của Thái Lan, thủ đô Bangkok của
Thái lan sạch hơn thủ đô Hà Nội của Việt Nam rất nhiều, thế nhưng thành phố Sài
Gòn là dơ dáy nhất. Tại sao thế nhỉ? Ngày xưa tôi sống và lớn lên ở đó, đâu có
vậy!
Người ta có thể đổ thừa cho “xã hội”, đổ lỗi
cho “thể chế Cộng Sản”, hoặc đổ vấy cho lối “giáo dục ở học đường” nhưng dường
như người ta quên đi rằng, tất cả những thứ đó đều do ảnh hưởng trực tiếp từ
mái ấm nhà mình, từ ông bà, từ cha mẹ, và từ những người lớn tuổi ở chung xóm.
Cũng đừng đổ thừa tại mật độ dân số. Dân số
theo thống kê của năm 2019 thì Bangkok gần 10 triệu người, trong khi ở Sài Gòn
chỉ chưa tới 9 triệu. Cũng đừng đổ thừa là dân tứ xứ về thành phố sinh sống tạm
và làm việc đông hơn con số thống kê. Ở Bangkok cũng có số dân tạm cư đến từ
ngoại thành sinh sống và làm ăn, không nằm trong con số thống kê y như nhau cả
thôi. Chúng tôi ở Bangkok gần 1 tháng trời, đi 10 chiếc xe Grab thì 10 người
tài xế đều là dân đến từ những vùng cách xa thành phố cả hơn nửa ngày đường.
Nhiều người trong số họ, vài tháng mới về thăm quê một lần, không khác dân tạm
cư ở Sài Gòn là mấy.
(Không thể so sánh sài Gòn với Kuala Lumpur (một
sai sót trầm trọng khi tôi ĐÃ so sánh 2 thủ đô của Mã Lai và Việt Nam) vì dân số
ở Kuala Lumpur quá ít để so với Sài Gòn.)
Tại sao lại có sự khác biệt đến kỳ cục như vậy? Một lần nữa, xin đừng đổ
tại sống với Cộng sản nó thế!
Tôi chỉ có thể đoán được rằng, người dân Việt
mình sống không lo cho tương lai, sống không biết đến con cháu, và nếu phải nói
thẳng, nói thật thì người Việt mình sống rất ích kỷ. Mỗi người, sống chỉ lo cho
một mình họ. Mỗi gia đình, sống chỉ lo cho một mình gia đình của họ. Người ta
có thể giữ rất sạch sẽ trong sân nhà của mình nhưng lại sẵn sàng quăng rác sang
sân nhà hàng xóm hoặc mang rác trong nhà ra quăng đúng vào những chỗ có cái bảng
“Cấm Đổ Rác” hoặc “Cấm Bỏ Rác Tại Đây” nằm chễm chệ, chình ình ngay trước một đống
rác khổng lồ có sẵn. Thế mới hài. Ở Việt Nam bao giờ cũng thế, những cái bảng Cấm
Đổ Rác thường nằm ở những bãi rác khổng lồ, như để trêu ngươi.
Những cái bảng “Cấm Đái Bậy” lại thường nồng nặc
mùi khai của nước đái. Dân Việt thường rất … Tế Nhị, họ chỉ xả rác và xả nước ở
ngay những … chỗ có Bảng Cấm, cho đúng … phong cách.
Phần đông dân Sài Gòn ngày nay chủ trương cứ xả
rác ra đường, chỉ cần giữ sạch trong nhà là đủ. Không ít những bà nội trợ tay cầm
theo bao rác từ nhà mình trên đường đến chợ để quăng ở cái đống rác dọc đường.
Không ít những gia đình cho xả nước từ máy giặt trong nhà ra con đường trước
nhà, hoặc hất thẳng cái thau nước rửa chén bát ra trước cửa.
Không ít hàng quán xả thẳng những thùng nước rửa
chén bát, xả thằng những đồ ăn dư, những cặn bã của dầu mỡ nấu nướng vào cái ống
cống ngay trước mặt. Chỉ ít lâu sau chỗ đó biến thành một màu đen nhây nhúa hôi
hám đến sợ, nơi mà những con chuột cống to như mèo con chạy ra chạy vào như chốn
không người.
Không ít con phố có những quán ăn mà những ống
cống ở phía sau nước trồi lên đen kịt theo con nước của những nhánh sông chảy
vào thành phố. Cứ nghĩ mỗi khi "triều cường" thành phố ngập nước, thì
những thứ rác rưởi, sình bùn và các loại ô uế kia tràn cả vào trong nhà mình
thì sao nhỉ?
Chỗ nào cũng có người đái bậy và đái đúng.
Sáng sáng mẹ cho con vach quần ra trước cửa nhà đứng đái tỉnh bơ. Chiều chiều bố
đi nhậu chân ngang đá chân xiêu về, ghé vào góc tường của căn phố trong hẻm đái
cũng tình bơ luôn. Ở Việt Nam, chỉ có chưa thấy bảng “Cấm Ỉa Bậy” mà thôi.
Một phần khác, có lẽ là do tinh thần Thiếu
Trách Nhiệm của người Sài Gòn ngày nay. Bất cứ cái gì CHUNG là họ chờ và nhường
cho người khác làm.
Người Sài Gòn ngày nay không còn cái bản tánh
“thích xía vô chuyện của người khác” như ngày xưa nữa. Họ thấy những điều trái
tai, gai mắt hoặc sai phạm mà những người bên cạnh họ làm, những người chung
quanh họ làm, thì họ lờ đi. Kệ mẹ nó, dính vào làm gì!
Để rồi, những sự dồn nén đó, những “bức xúc”
đó, được họ đem cả lên mạng Facebook chém đến kinh hoàng, chém hơn Trương Phi
múa đao ngoài trận địa. Trên mạng Facebook, điều gì họ cũng biết, chuyện gì họ
cũng tỏ, chỗ nào họ cũng có mặt, nhưng ở ngay trước sân nhà mình, ở ngay con đường
chính của lối xóm, rác rưởi, bùn sình bẩn thỉu họ lại không hề nhìn thấy.
Họ tránh né cái tệ hại chung của xã hội với chủ
trương mũ ni che tai, nhưng lại rất hùng hổ chỉ trích và đả kích những gì chẳng
có chút liên quan đến họ, đến gia đình họ … ở trên mạng. Phải công nhận, chỉ có
ở Việt Nam mới có những cao thủ thượng thừa, những thánh chém gió thứ dữ.
Gia Đình Là Phần Tử Cốt Lõi của một xã hội, nếu
cha mẹ không dạy cho con cái, nếu cha mẹ không sống như một tấm gương cho con
cái học theo, khó mà có thể khá hơn được.
XÃ HỘI CHÍNH LÀ TẤM GƯƠNG PHẢN ẢNH của GIA ĐÌNH và
NGƯỢC LẠI.
.
.
No comments:
Post a Comment