ASEAN có đứng vững trước sự “mua chuộc” của Trung Quốc?
Nguyễn Trường
2020-08-31
Trung Quốc tích cực hoạt động “lấy lòng” toàn thế giới
Trong bối cảnh sự căng thẳng Mỹ - Trung ngày càng gia tăng. Tổng thống
Hoa Kỳ Donald Trump đã liên tục tung các đòn “tấn công” Trung Quốc. Một mặt, Bắc
Kinh “lặng yên chịu trận”, mặt khác, đội ngũ ngoại giao của Trung Quốc tích cực
các chuyến công du để “lấy lòng” các đối tác.
Đầu tiên là Ủy viên Bộ Chính trị Dương Khiết Trì - Chủ nhiệm Văn phòng Ủy
ban Đối ngoại Trung ương, cơ quan ra quyết sách ngoại giao cao nhất của Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Từ ngày 19-22/8, ông Dương Khiết Trì đã lần lượt tới thăm
Singapore và Hàn Quốc. Đây không chỉ là lần đầu tiên một lãnh đạo cấp cao trong
Đảng Cộng sản Trung Quốc ra nước ngoài sau “kỳ nghỉ Bắc Đới Hà”, mà còn là chuyến
thăm chính thức đầu tiên của một lãnh đạo cấp cao Trung Quốc sau khi đại dịch
viêm đường hô hấp cấp do virus Corona chủng mới (COVID-19) hoành hành trên khắp
thế giới, ngoại trừ chuyến thăm Hawaii của ông Dương Khiết Trì hồi tháng
6/2020.
Theo hãng tin Tân Hoa Xã, năm 2020 là kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ
ngoại giao giữa Trung Quốc và Singapore, do đó, ông Dương Khiết Trì và Thủ tướng
Singapore Lý Hiển Long cùng nhắc lại “mối quan hệ đối tác hợp tác toàn diện
cùng phát triển” đã được lãnh đạo hai nước xác định năm 2015. Đồng thời, trong
cuộc đối thoại, ông Dương Khiết Trì cũng bày tỏ mong muốn ổn định chuỗi cung ứng,
tăng cường cuộc chiến chống COVID-19, thúc đẩy hợp tác trong sáng kiến “Vành
đai và Con đường” (BRI). Ông đã nhận được sự hồi đáp tích cực từ phía
Singapore.
Singapore luôn được coi là thành viên quan trọng của ASEAN, từng là cầu
nối giữa Trung Quốc và phương Tây, có quan hệ sâu sắc với các nhà lãnh đạo
chính trị cấp cao trước đây của Trung Quốc. Tuy nhiên, Singapore cũng đóng vai
trò phức tạp trong việc làm xấu đi quan hệ Trung-Mỹ hiện nay. Việc Bắc Kinh cử
ông Dương Khiết Trì tới thăm Singapore và chọn nước này là điểm dừng chân đầu
tiên trong tiến trình khôi phục các mối quan hệ ngoại giao của Trung Quốc truyền
tải một thông điệp rõ ràng là Trung Quốc rất coi trọng và đặt kỳ vọng tương đối
cao vào Singapore.
Thủ tướng Lý Hiển Long cho biết Singapore sẵn sàng tăng cường trao đổi
cấp cao với Trung Quốc, tận dụng tốt cơ chế hợp tác song phương, thúc đẩy phát
triển quan hệ ASEAN-Trung Quốc, cùng đẩy mạnh việc phục hồi kinh tế khu vực và
thế giới. Đây có lẽ là câu trả lời mà Bắc Kinh mong đợi.
Hình minh hoạ. Ủy viên Bộ Chính trị Dương Khiết Trì - Chủ nhiệm Văn phòng
Ủy ban Đối ngoại Trung ương (trái) và ông Suh Hoon - Giám đốc mới được bổ nhiệm
của Văn phòng An ninh Quốc gia thuộc Phủ Tổng thống Hàn Quốc tại Busan, Hàn Quốc
hôm 22/8/2020 Reuters
Điểm dừng chân thứ hai của ông Dương Khiết Trì cũng quan trọng không
kém, đó là Hàn Quốc. Là một đồng minh truyền thống của Mỹ ở Đông Á và là một nền
kinh tế quan trọng ở khu vực, thái độ của Hàn Quốc luôn phức tạp và hay dao động.
Thời kỳ bà Park Geun-hye nắm quyền, mối quan hệ vốn rất thân thiết Trung-Hàn đã
bị rạn nứt do Hàn Quốc đồng ý cho Mỹ triển khai hệ thống tên lửa tầm cao giai
đoạn cuối (THAAD) ở nước này. Tuy nhiên, trên thực tế, mối quan hệ Mỹ-Hàn ngày
càng bị xem xét lại. Theo giới quan sát, chuyến công du Hàn Quốc của ông Dương
Khiết Trì có thể là một chuyến thăm mang tính sự vụ. Việc ông Dương Khiết Trì
nhận lời mời gặp ông Suh Hoon - Giám đốc mới được bổ nhiệm của Văn phòng An
ninh Quốc gia thuộc Phủ Tổng thống Hàn Quốc - là để xác nhận rằng ngay
sau khi dịch bệnh lắng dịu, Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ tới thăm Hàn Quốc. Tuy
nhiên, vấn đề mà hai bên trao đổi rõ ràng là vấn đề mà 2 bên quan tâm hơn nhiều.
Điều mà phía Hàn Quốc rất quan tâm là vấn đề bán đảo Triều Tiên. Ông Dương Khiết
Trì đã cam kết sẽ tiếp tục duy trì liên lạc chặt chẽ với Hàn Quốc. Trong khi
đó, Trung Quốc rất quan tâm đến lập trường của Seoul trong bối cảnh quan hệ
Trung-Mỹ xấu đi. Tuy nhiên, ông Suh Hoon lại không đưa ra quan điểm rõ ràng, chỉ
nói rằng việc Trung Quốc và Mỹ thiết lập mối quan hệ cùng thắng là rất quan trọng
để mang lại hòa bình và sự phồn vinh ở Đông Bắc Á cũng như trên thế giới. Không
rõ tuyên bố này có đủ để trấn an Bắc Kinh hay không.
Điều đáng chú ý nữa là hai bên khẳng định sự cần thiết của việc tổ chức
Hội nghị thượng đỉnh Trung-Nhật-Hàn trong năm nay cũng như đẩy nhanh cuộc đàm
phán giai đoạn 2 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA), ký kết Hiệp định Đối tác
Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) trong năm nay, khai thác các dự án mẫu kết nối
chính sách hướng Nam mới và hướng Bắc mới của Hàn Quốc với sáng kiến BRI của
Trung Quốc. Nhất thể hóa kinh tế khu vực Trung-Nhật-Hàn luôn là mong đợi của
Trung Quốc (và cả Nhật Bản và Hàn Quốc). Sự kết hợp giữa 3 nền kinh tế khổng lồ
không chỉ là về số lượng, mà quan trọng hơn, nó trở thành lực lượng lớn ảnh hưởng
và chi phối cấu trúc kinh tế toàn cầu.
Ngoài ông Dương Khiết Trì, Ủy viên Quốc vụ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao
Trung Quốc Vương Nghị, cũng hoạt động khá tích cực. Ngày 20/8, ông Vương Nghị
đã hội đàm với Ngoại trưởng Indonesia Retno Lestari Priansari tại Bảo Đình thuộc
tỉnh Hải Nam khi bà này thăm Trung Quốc; tiến hành Đối thoại chiến lược Trung
Quốc-Pakistan lần thứ hai với Ngoại trưởng Pakistan Shah Mahmood Qureshi ngày
21/8. Điểm nhấn tiếp theo là hoạt động kỷ niệm 20 năm ký Hiệp ước biên giới đất
liền và 10 năm triển khai 3 văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt-Trung
tại Đông Hưng, Quảng Tây ngày 23/8.
Trong khi đó, ngày 24/8, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường cũng đã
tham dự Hội nghị Cấp cao Hợp tác Mekong-Lan Thương lần thứ ba được tổ chức theo
hình thức trực tuyến, đồng thời “chìa cành ô liu” với cam kết sẽ ưu tiên cung cấp
vaccine ngừa COVID-19 của Trung Quốc cho các nước khu vực Mekong.
Hình minh hoạ. Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị và người đồng nhiệm Na
Uy Ine Eriksen Soreide tại cuộc gặp ngắn ở Oslo, Na Uy hôm 27/8/2020 Reuters
Từ Singapore, Hàn Quốc đến Indonesia, Pakistan và Việt Nam, các hoạt động
ngoại giao láng giềng dày đặc của các nhà lãnh đạo ngoại giao cấp cao Trung Quốc
trong thời điểm khó khăn hiện nay đã cho thấy tính linh hoạt và chiến lược của
Bắc Kinh. Chuyến thăm chính thức của ông Vương Nghị tới 5 nước châu Âu (Italy,
Hà Lan, Na Uy, Pháp và Đức) trong tuần này được cho là thời điểm quan trọng để
Trung Quốc tận dụng đi sâu vào “sân sau” truyền thống của Mỹ, trong bối cảnh
Chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump đang bận rộn ứng phó với dịch bệnh
và cuộc bầu cử trong nước. Trong bối cảnh quan hệ Trung-Mỹ ngày càng xấu đi và
các doanh nghiệp Trung Quốc liên tục chịu sự chèn ép của Mỹ, Bắc Kinh luôn tìm
mọi cách để phá vỡ “vòng phong tỏa”, ngăn chặn và loại bỏ những tác động bất lợi,
và đương nhiên là “làm tan rã” sự bao vây kinh tế và phong tỏa công nghệ của Mỹ
cùng các đồng minh. Việc Bắc Kinh vội vã mở cửa quan hệ với châu Âu và các nước
láng giềng bắt nguồn từ việc này.
ASEAN và vấn đề biển Đông
Chiến lược của Trung Quốc là ngăn mọi bất đồng trên Biển Đông trở thành
đa phương về bản chất, và thúc đẩy việc giải quyết căng thẳng thông qua đàm
phán song phương. Bắc Kinh không muốn để một bên thứ ba có ảnh hưởng ở khu vực
như Mỹ, Nhật Bản hay Australia, có cơ hội can thiệp.
Giới quan sát nhận định ASEAN đang gặp khó khăn trong việc đạt đồng thuận
về những vấn đề liên quan đến Trung Quốc. Dù đã kết nối với Bắc Kinh trong nhiều
vấn đề khác nhau, từ hàng loạt khuôn khổ cho đến các cuộc tham vấn, các nước
thành viên ASEAN vẫn chưa tìm thấy hướng giải quyết cho những khúc mắc liên
quan tới các tuyên bố chủ quyền chồng lấn.
Trung Quốc là một trong số những đối tác thương mại hàng đầu của các nước
ASEAN. Khu vực này cần cả Mỹ lẫn Trung Quốc, và không muốn bị đặt vào tình thế
phải lựa chọn giữa một bên nào đó. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu Mỹ có muốn
Đông Nam Á và ASEAN cùng siết chặt vòng vây Trung Quốc?
Giới phân tích và nhiều nhà quan sát cho rằng ASEAN phải bắt đầu tham
gia cuộc chơi và cùng chống lại Trung Quốc như một khối thống nhất. Khu vực cần
ngăn Trung Quốc đạt được lợi ích chiến lược và dành nhiều nguồn lực hơn để tăng
cường năng lực bảo vệ không gian biển. Nhưng liệu điều này có khả thi?
Một thay đổi lớn gần đây, ban đầu do Nhật Bản đưa ra ý tưởng nhưng dần
dần được các nước khác chấp nhận, là xác định lại khái niệm khu vực “Châu
Á-Thái Bình Dương” có nghĩa là khu vực “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” rộng hơn
bao gồm cả Australia, Ấn Độ và Mỹ với tư cách là các cường quốc trong khu vực.
Trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng hơn này, các quốc gia thành viên
ASEAN lo sợ rằng sự hiện diện của họ sẽ giảm sút khi các cường quốc lớn tự xác
định họ là quốc gia bản địa chứ không phải người ngoài, như cách hiểu truyền thống
về “Đông Á”.
Tuy nhiên, mọi thay đổi đều mang lại những cơ hội mới. Về mặt địa lý,
ASEAN nằm ở trục giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, và đặc điểm này không bị
mất đi đối với những ai coi trọng vị trí trung tâm của ASEAN. Nhưng vấn đề
không đơn giản như bạn thấy. Trong khoa học chính trị, “tác nhân chủ chốt” được
định nghĩa là tác nhân đẩy cơ quan lập pháp vượt qua ngưỡng cần thiết để thông
qua luật. Hãy ghi nhớ rằng các quy tắc của lĩnh vực này - như đa số là bắt buộc
hoặc hình thức bỏ phiếu - ảnh hưởng đến định nghĩa “tác nhân chủ chốt”. Với sự ủng
hộ của tác nhân chủ chốt, các quyền ưu tiên của phần còn lại trong cơ quan lập
pháp bị chia rẽ không thành vấn đề vì thành công đã được đảm bảo. Ở khu vực Ấn
Độ Dương-Thái Bình Dương, vị trí chiến lược của ASEAN giữa các cường quốc lớn
cũng như vị trí trung tâm địa lý của ASEAN mang lại cho ASEAN vai trò then chốt
đối với khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương - nếu khối này có thể nhận ra sức mạnh
của chính họ cũng như những cạm bẫy tiềm ẩn.
Các quốc gia ASEAN hiện thấy mình là những chủ thể mà sự ủng hộ của họ
là cần thiết đối với các cường quốc bên ngoài để đảm bảo đạt các nước này đạt
được những mục tiêu của mình. Trung Quốc không thể tuyên bố rằng Sáng kiến
"Vành đai và Con đường” sẽ mang lại lợi ích cho khu vực nếu khu vực này
không công nhận và phê duyệt các dự án.
Mặc dù sự thay đổi trong chính sách của Mỹ về lâu dài sẽ có tác động
khiến Trung Quốc phải trả giá và thu hút sự ủng hộ của các đồng minh và đối
tác, nhưng trước mắt cần lưu ý đến 3 khía cạnh:
Thứ nhất, trong tương lai, có thể mong đợi một phản ứng
ngoại giao mạnh mẽ hơn từ Mỹ lên án các hành vi xâm phạm trái phép của Trung Quốc
vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) hoặc quấy rối hoạt động khoan dầu và đánh bắt
cá của nước khác.
Thứ hai, Mỹ giờ đây sẽ đưa các hành vi bất hợp pháp ra
trước các diễn đàn quốc tế, không còn giới hạn ở Hội nghị cấp cao Đông Á nữa,
mà sẽ nêu vấn đề tại các hội nghị LHQ, G7 và G20…
Thứ ba, Mỹ cũng có thể thực hiện nhiều bước đi hơn nữa
để gây thiệt hại kinh tế cho Trung Quốc. Bằng cách tuyên bố một số hoạt động của
Trung Quốc là bất hợp pháp, Mỹ đã tự trang bị cho mình lời biện minh cho việc
áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với một số công ty và tổ chức Trung Quốc thực
hiện các hoạt động trên. Mục tiêu của Washington là thay đổi hành vi của Bắc
Kinh và vì điều này, họ cần các nước khác ủng hộ. Trong ngắn hạn, căng thẳng có
thể leo thang do thực tế là Trung Quốc, nước phải làm hài lòng người dân trong
nước vốn khó chịu trước sự bất bình đẳng và chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sẽ sử dụng
chính sách ngoại giao chiến lang. Điều này được thể hiện trong bối cảnh của tiến
trình giảm leo thang căng thẳng ở biên giới Ấn Độ-Tây Tạng. Các nhà ngoại giao
Trung Quốc tự mãn cho rằng Bắc Kinh chỉ đang bảo vệ chủ quyền, còn Ấn Độ mới là
bên gây hấn.
Hình minh hoạ. Thủ tướng VN Nguyên Xuân Phúc phát biểu tại Thượng đỉnh
ASEAN ở Hà Nội hôm 26/6/2020 AFP
Trong khi tình hình trên mở ra cơ hội cho ASEAN và Chủ tịch của ASEAN
là Việt Nam để đưa ra các động thái phù hợp nhằm bảo vệ lợi ích của mình, thì
điều đó cũng đặt ra cho họ một trách nhiệm nặng nề. Trước tiên, ASEAN cần
đưa ra trước các cơ quan quốc tế như LHQ, EU… những hành động và yêu sách phi
lý của Trung Quốc một cách mạnh mẽ hơn và điều chỉnh các động thái chiến lược của
mình. Cùng với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, điều này tạo cơ hội gây sức
ép buộc Trung Quốc sớm hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) có ràng
buộc về mặt pháp lý và tuân thủ phán quyết của PCA. Trên cương vị Chủ tịch
ASEAN, Việt Nam đã đưa ra tiến trình các cuộc họp giữa LHQ và ASEAN, và cơ chế
này nên được thực hiện lâu dài. Các cơ chế tương tự cũng nên được thiết lập với
các tổ chức quốc tế khác.
Thứ hai, Cộng đồng Quốc tế giờ đây sẽ sẵn lòng giúp đỡ
các nước ASEAN xây dựng năng lực quân sự. Đây là cơ hội cho các quốc gia ven biển
để tăng cường năng lực quân sự bằng cách mua vũ khí và công nghệ hiện đại. Việt
Nam có thể xúc tiến mua lại công nghệ quốc phòng và tên lửa như Brahmos từ Ấn Độ
vì cả hai đều là đối tác chiến lược. Ngoài ra, các nước ASEAN có thể được khuyến
khích tham gia tập trận hải quân với Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ. Hoạt động
của Nhóm Bộ Tứ Mở rộng, có thể bao gồm cả ASEAN và Hàn Quốc, sẽ giúp kiềm chế
Trung Quốc và củng cố nỗ lực duy trì khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do
và rộng mở dựa trên luật pháp và chuẩn mực quốc tế.
Thứ ba, Chủ tịch ASEAN không nên để bất kỳ thành viên
nào bị Trung Quốc ép buộc. Đây sẽ là một nhiệm vụ khó khăn khi Trung Quốc đang
sử dụng mọi thủ đoạn để lôi kéo những người có ảnh hưởng ở các nước yếu kém về
kinh tế. Tuy nhiên, khi các nước thành viên ASEAN nhận ra cái giá phải trả cho
việc đi theo và rơi vào bẫy nợ của Trung Quốc, người ra hy vọng rằng tình hình
tương tự mà Trung Quốc tạo ra trong năm 2012 sẽ không lặp lại.
Thứ tư, cần đập tan nỗ lực của Trung Quốc nhằm khẳng
định yêu sách lịch sử của “Đường 9 đoạn”. Đây chỉ là những lập luận tùy tiện mà
Trung Quốc đưa ra với hy vọng ngày nào đó sẽ được cộng đồng quốc tế chấp nhận.
ASEAN cần đạt được một thỏa thuận rằng các quốc gia thành viên phải thể hiện Biển
Đông như một khu vực chung trên bản đồ chính thức của mỗi nước. Nếu các thành
viên ASEAN có thể đồng thuận về một danh từ chung phù hợp cho Biển Đông, chẳng
hạn như Biển Đông Nam Á, thì điều đó sẽ tốt hơn nhiều.
Thứ năm, ASEAN cũng có thể áp đặt chi phí kinh tế lên
Trung Quốc bằng cách giảm sự phụ thuộc vào hàng hóa Trung Quốc. Một số doanh
nghiệp đang rời khỏi Trung Quốc, khiến chuỗi cung ứng của Trung Quốc đại lục và
Hong Kong bị gián đoạn. Điều này đem lại cơ hội tuyệt vời cho Việt Nam, nước đã
làm tốt hơn Trung Quốc về kinh tế trong năm nay. Những công ty này nên được
cung cấp cơ sở hạ tầng cần thiết để chuyển khỏi Trung Quốc và đảm bảo việc nới
lỏng các quy định nếu được yêu cầu. Việt Nam có thể trở thành trung tâm sản xuất
ở Đông Nam Á. Trong hoạt động kinh tế, Ấn Độ và Việt Nam có thể làm việc như những
đối tác để tăng cường chuỗi cung ứng. Trong khi các mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam sang Ấn Độ bao gồm điện thoại di động và linh kiện, máy móc, máy tính và phần
cứng điện tử, cao su tự nhiên, hóa chất và cà phê; các mặt hàng xuất khẩu của Ấn
Độ sang Việt Nam bao gồm thịt và các sản phẩm thủy sản, ngô, thép, dược phẩm,
bông và máy móc. Việt Nam cũng đang xuất khẩu gạo chất lượng cao sang các nước
khác. Vì những mặt hàng này có nhu cầu lớn ở châu Phi, Tây Á và châu Âu, một sự
kết nối được cải thiện có thể thúc đẩy đáng kể giao thương của Việt Nam với các
thị trường nói trên.
----------------------------------------------------------------------
* Bài viết không thể
hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
No comments:
Post a Comment