Tập
Cận Bình không phải là Joseph Stalin
Michael McFaul - Foreign
Affairs
Trà Mi dịch
Posted on August 12, 2020
http://dcvonline.net/2020/08/12/tap-can-binh-khong-phai-la-joseph-stalin/
Cách suy diễn lịch sử lười
biếng đã làm Washington chệch hướng chiến lược Trung Hoa.
CS Trung Hoa “như nó là”
không do một Stalin mới cai trị. Khăng khăng nói khác đi sẽ không thay đổi thực
tế đó và sẽ cản trở việc thiết lập một chính sách tinh vi, thành công của Hoa Kỳ
nhằm kiềm chế, ngăn chặn và đối đâu với CS Trung Hoa về lâu về dài.
hủ tịch CS Trung
Hoa Tập Cận Bình tại Bắc Kinh, tháng 10 năm 2019, Nguồn: Thomas Peter / Reuters
Trong một loạt diễn văn
vào mùa hè này, giới chức cao cấp trong chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ
Donald Trump đã coi Hoa Kỳ và CS Trung Hoa là đối thủ trong một cuộc Chiến
tranh Lạnh mới. Phát biểu với Cơ quan Thương mại Arizona vào tháng 6, Cố vấn
An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Robert O’Brien đã so
sánh trực tiếp Chủ tịch CS Trung Hoa Tập Cận Bình với nhân vật độc tài
Liên Xô khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu:
“Hãy biết rằng, Đảng Cộng sản Trung Hoa là một đảng
theo chủ nghĩa Marxist-Leninist. Tổng Bí thư Tập Cận Bình tự coi mình là người
kế nhiệm Josef Stalin.”
Một tháng sau tại
California, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Michael Pompeo đã có bài phát biểu về ông Tập
có thể như bài diễn văn mà Tổng thống Harry Truman đã nói về Stalin. Ông
Pompeo nói:
“Tổng Bí thư Tập Cận Bình là người thực sự tin tưởng
vào ý thức hệ toàn trị đã phá sản, ý thức hệ của Tập cho thấy ước mơ của ông ta
trong nhiều chục năm về chủ nghĩa cộng sản Trung Hoa ở vị trí bá chủ toàn cầu.”
Lặp lại ý tưởng của giới
hoạch định chính sách của Mỹ vào đầu Chiến tranh Lạnh, Pompeo đã coi cuộc chiến
với ông Tập và Đảng Cộng sản Trung Hoa (ĐCSTH) là một cuộc chiến mà cuối cùng
chỉ một bên có thể chiến thắng:
“Nếu thế giới tự do không thay đổi. . . Cộng sản
Trung Hoa chắc chắn sẽ thay đổi chúng ta.”
Và ông viết lại trên
twitter:
“CS Trung Hoa đang nỗ lực để tiêu diệt tự do trên
toàn thế giới.”
.
Trên thực tế, Truman đã
có một bài phát biểu trước Quốc hội tương tự vào ngày 12 tháng 3 năm 1947, thiết
lập Học thuyết Truman. Cảnh báo về mối đe dọa cộng sản, Truman tuyên bố:
“Vào thời điểm hiện tại trong lịch sử thế giới gần
như mọi quốc gia đều phải lựa chọn giữa những cách sống khác nhau. Sự lựa chọn
đó thường không phải là sự lựa chọn tự do. Một lối sống dựa trên ý muốn của đa
số, và được định hình bằng những thể chế tự do, chính phủ đại diện, bầu cử tự
do, bảo đảm quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận và tôn giáo, và tự do, ngoài
vòng áp bức chính trị. Cách sống thứ hai dựa trên ý muốn của thiểu số áp đặt
lên đa số. Nó dựa vào khủng bố và áp bức, một báo giới và những đài phát thanh
bị kiểm duyệt; bầu cử xếp đặt trước và đàn áp các quyền tự do cá nhân. Tôi tin
rằng chính sách của Hoa Kỳ phải nhằm hỗ trợ các dân tộc tự do đang chống lại âm
mưu nô dịch hóa của các nhóm thiểu số có vũ trang hoặc do những áp lực từ bên
ngoài.”
.
Ba năm sau, vào tháng 4
năm 1950, Truman thông qua một văn kiện chính sách bí mật gọi là NSC-68, đưa ra
chiến lược của ông nhằm ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Các đoạn trong
tài liệu đó nghe giống như những bài phát biểu của Pompeo và O’Brien một cách kỳ
lạ:
“Liên Xô, không giống như những nước có tham vọng bá
chủ trước đây, sống động hóa do một sự cuồng tín mới, phản đề với chính chúng
ta và tìm cách áp đặt quyền lực tuyệt đối của họ lên cả thế giới. Do đó, xung đột
và hậu quả đã nổi lên ở khắp nơi, về phía Liên Xô, bằng các phương pháp bạo lực
hoặc bất bạo động phù hợp với các mệnh lệnh vì hiệu quả. . . Các vấn đề mà
chúng ta phải đối phó rất quan trọng, liên quan đến sự hoàn thành hoặc hủy diệt
không chỉ nền Cộng hòa này mà còn cả nền văn minh thế giới.”
.
Chính quyền Trump dường
như có ý định phục hồi tinh thần này trong những đối đáp với CS Trung Hoa —
đúng vậy, bằng một loạt các biện pháp trừng phạt đối với giới chức của ĐCSTH và
Hong Kong, cấm kỹ thuật và ứng dụng của CS Trung Hoa, trục xuất các nhà báo và
sinh viên Trung Hoa, và đóng cửa tòa lãnh sự CS Trung Hoa ở Houston dường như
được thiết kế một phần để thúc đẩy Chiến tranh Lạnh với Bắc Kinh. Nhờ công lao
của họ, Pompeo, O’Brien và những viên chức khác của Hoa Kỳ công nhận rằng sự trỗi
dậy của CS Trung Hoa sẽ là thách thức định hình đối với chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ trong thế kỷ này. Họ cũng đúng khi nhấn mạnh rằng sự cạnh tranh giữa Hoa
Kỳ và CS Trung Hoa không chỉ về quyền lực mà còn về ý thức hệ: Hoa Kỳ là một nền dân chủ (mặc
dù ngày càng có nhiều khiếm khuyết); CS Trung Hoa là một chế độ độc tài đã trở
nên chuyên quyền hơn dưới thời ông Tập. Và giống như Hoa Kỳ và Liên Xô
trong Chiến tranh Lạnh, cả hai nước đều sử dụng nhiều phương tiện truyền thông,
viện trợ kinh tế và kỹ thuật, các liên minh chính thức, quan hệ với các đảng
phái chính trị, hoạt động bí mật, và trong trường hợp của Hoa Kỳ, đôi khi thậm
chí can thiệp bằng quân sự để nâng cao ý thức hệ của họ.
Nhưng liệu Tập có thực sự là người thừa kế của
Stalin, như O’Brien đã tuyên bố và như nhưng viên chức Hoa Kỳ khác nghĩ? Cơ sở để so sánh hai người như vậy không vững
chắc. Có lẽ Tập và các đồng chí của ông ta thực sự muốn chinh phục toàn thế giới
và thay thế tất cả các nền dân chủ bằng những chế độ độc tài theo chủ nghĩa
Mác-Lê-nin — Tôi không đủ chuyên môn để phán đoán ý định của họ cũng như không
nắm được thông tin tình báo mật. Có thể ông Tập đã búng tay đồng ý với một chiến
lược bí mật, giống như Truman đã làm khi ký NSC-68, xây dựng một kế hoạch lớn để
áp đặt các chế độ độc tài cộng sản ở khắp mọi nơi và thống trị thế giới. Nhưng
như chính ông Pompeo lập luận,
Washington nên “hành động không dựa trên những gì các nhân vật lãnh đạo
CS Trung Hoa nói, mà dựa vào cách họ hành xử.”
Và đó là chỗ mà sự tương
đồng với Stalin không còn nữa.
Ông Tập gần giống với
Stalin nhất trong cách ông cai trị đất
nước của mình: ông có thể sẽ nắm quyền trong nhiều chục năm và đã tạo
ra một sự sùng bái nhân có thể gây ấn tượng với cả những người trong ban tuyên
giáo của Stalin. ĐCSTH dưới
thời ông Tập điều hành một chế độ độc tài tàn bạo và áp bức. Chế độ đó
ngăn cản các quyền tự do cá nhân, giam cầm những người bất đồng chính kiến và các đối thủ, đồng thời đã đưa vô số người Uighur và các dân tộc thiểu số
khác vào những trại tù cải tạo, nơi mà một số chuyên gia đã coi là diệt chủng văn hóa. Nhưng kỹ thuật
mới mang lại cho đảng cộng sản những công cụ theo dõi và kiểm duyệt mà nhiều chế
độ cộng sản thời Chiến tranh Lạnh chỉ có thể mơ ước. Nhưng “Xi-ism” vẫn không
phải là chủ nghĩa Stalin. Chế độ của Stalin độc tài hơn nhiều trong việc kiểm
soát mọi khía cạnh của đời sống công dân Liên Xô. Stalin cũng giết hàng triệu
người và bỏ
tù hàng triệu người khác, chỉ có Hitler và Mao là đối thủ về độ tàn bạo
của Stalin. Xi không được xếp vào danh sách này.
Người dân CS Trung Hoa được
hưởng quyền tự chủ về phúc lợi kinh tế của chính họ cao hơn nhiều so với công
dân Liên Xô trong những ngày đầu của Chiến tranh Lạnh — một sản phẩm của nền
kinh tế mở hơn, định hướng thị trường và hội nhập toàn cầu của CS Trung Hoa.
Trên khía cạnh này, sự so sánh thậm chí không giống nhau chút nào.
Washington không nên bỏ phí thời gian hơn để cố gắng
ngáng chân đối thủ và cần dùng nhiều thời gian hơn để cố gắng trở thành một lực
sĩ giỏi hơn.
Tội ác của Josep Stalin nhiều người Nga ngày nay vẫn
mù mờ. Nguồn: theday.co.uk
Nhìn vào chính sách đối
ngoại, và sự không giống nhau lại càng rõ hơn nữa. Stalin đã công khai tuyên bố
mong muốn của ông ta về một cuộc cách mạng cộng sản toàn cầu, hy vọng tạo ra một
mạng lưới các quốc gia xã hội chủ nghĩa dưới sự cai trị của Moscow — và đó
không chỉ là lời nói suông. Trong những năm đầu của Chiến tranh Lạnh, những Hồng
quân, sĩ quan tình báo và đảng viên Đảng Cộng sản của ông đã ráo riết áp đặt chủ
nghĩa cộng sản trên khắp Đông Âu. Ông đã viện trợ cho Đảng Cộng sản Trung Hoa của
Mao và bí mật yểm trợ những người cộng sản ở Hy Lạp, khuyến khích các lực
lượng quân sự ủy nhiệm trong Chiến tranh Đại Hàn và yểm trợ các cuộc đảo chính
trên khắp thế giới. Ông giải thể Quốc tế Cộng sản, hay Comintern, vào năm 1943,
khi liên minh với Hoa Kỳ và Anh trong Thế chiến thứ hai, nhưng ông thay thế nó
bằng một liên minh Đảng Cộng sản toàn cầu khác, Cominform[1], vào năm 1947.
Ngược lại, ông Tập đã
không dàn dựng việc lật đổ bất kỳ chế độ nào. Hong Kong có thể xem là gần như vậy
nhất, nếu xét đến những hành động đàn áp Bắc Kinh đang mở rộng ở đó. (Bắt giữ
chủ công ty, chủ báo Hong Kong Jimmy Lai (Lê Trí Anh) vì bị cáo buộc đã “thông
đồng với các thế lực nước ngoài”, như Bắc Kinh đã làm hôm thứ Hai, chính là
những gì mà bọn côn đồ của Stalin ở Đông Âu đã từng làm.)
Nhưng câu hỏi về chủ quyền
làm mờ đi sự tương đồng. Bắc Kinh cũng đã đầu tư nhiều công sức vào việc tuyên
truyền ý thứ hệ của họ, hầu hết đều trái ngược với chủ nghĩa tự do và dân chủ,
đồng thời cung cấp các kỹ thuật theo dõi sát và viện trợ kinh tế để duy trì chế
độ chuyên quyền ở những nước khác. Nhưng ông Tập vẫn chưa hề kích động một cuộc
đảo chính, một cuộc nổi dậy vũ trang, hay một cuộc xâm lăng nền dân chủ và cài
đặt chế độ cộng sản. Không có gì cho thấy rằng ông ta tìm cách lật đổ nền dân
chủ Mỹ. (Tổng thống Nga Vladimir Putin đã tỏ ra táo bạo và quyết liệt hơn nhiều
ở mặt trận đó.) Và mặc dù Ban Công tác Mặt trận Thống nhất – một trong những cơ
quan chính có ảnh hưởng của ĐCSTH ở nước ngoài – bảo đảm sự nghiên
cứu cẩn thận, chặt chẽ, những nỗ lực của Ban Công tác Mặt trận Thống
nhất nhằm xuất cảng hệ thống chính quyền CS Trung Hoa xem có vẻ yếu kém và
không hiệu quả so với những chiến thuật của Liên Xô. Quảng bá hình ảnh tích cực
về CS Trung Hoa của Tập, hoặc tuyên bố những lợi ích kinh tế từ mô hình phát
triển của họ không giống như việc xâm lăng các nước khác hoặc cung cấp súng AK-47
và bệ phóng tên lửa Katyusha cho quân du kích cộng sản. Nếu ông Tập và các đồng
chí của ông ta thực sự đang cố gắng quảng bá chủ nghĩa Mác-Lê-Mao trên toàn thế
giới, thì họ đang làm việc đó rất tệ.
Cs Trung
Hoa như nó là
Truman và chính quyền của
ông đã phản ứng chính đáng trước các cuộc xâm lược của Liên Xô bằng cách vận động
để be bờ chủ nghĩa cộng sản. Xác tín rằng “thất bại của các thể chế tự
do ở bất kỳ đâu cũng là thất bại ở mọi nơi”, như NSC-68 đã nói, Truman và
các tổng thống kế tiếp trong thời Chiến tranh Lạnh đã xây dựng những liên minh
lâu dài, xây dựng một trật tự quốc tế tự do kéo dài hàng nhiều chục năm và tạo
ra một mạng lưới các cơ quan chính phủ và các tổ chức phi chính phủ dành riêng
cho việc cổ súy dân chủ. Nghiên cứu những thành công này có thể rút ra được những
bài học quý giá về cách đối phó với CS Trung Hoa ngày nay.
Nhưng Hoa Kỳ cũng có lúc
phản ứng thái quá và đơn giản hóa quá mức, coi mọi phong trào cánh tả và giải
phóng dân tộc là kẻ thù cần phải đánh bại.
Cách suy nghĩ đó đã góp
phần vào một số thái độ thái quá tồi tệ nhất của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh, gồm
cả chủ nghĩa McCarthy, “khoảng cách hỏa tiễn” hư cấu, Chiến tranh Việt Nam và
việc ủng hộ những chế độ độc tài cánh hữu tàn bạo, kể cả chế độ phân biệt chủng
tộc ở Nam Phi.
Sự thờ ơ hiện nay của chính quyền Trump đối với chế
độ độc tài cộng sản ở Việt Nam là một điểm đập vào mắt
Tống hống Donald Trump ở Hà Nội (Tháng 2, 2019).
Saul Loeb/AFP/Getty Images.
Và Chiến tranh Lạnh thực
sự không lạnh; các học giả David Holloway và Stephen Stedman ước tính có 20 triệu
người đã chết từ năm 1945 đến năm 1989 trong 130 cuộc chiến, đa số là kết quả của
sự cạnh tranh giữa các siêu cường. Việc nhầm lẫn Tập với một Stalin mới có thể
khiến Hoa Kỳ lặp lại những sai lầm đó.
Chiến tranh lạnh kéo dài
40 năm. Phần lớn thời gian đó, chiến thắng là điều không chắc chắn. Để có thể
thành công trong một cuộc cạnh tranh thậm chí còn dài hơn, Washington phải chẩn
đoán chính xác mức độ nghiêm trọng của mối đe dọa và điều chỉnh những nỗ lực nhằm
be bờ và răn đe Bắc Kinh cho thích đáng. Sự so sánh sai trong Chiến tranh Lạnh
đã gây thiệt hại cho cả hai nỗ lực này. Washington không nên chi hàng nghìn tỷ
để chế tạo vũ khí hạch tâm, hỏa tiễn và vũ khí không gian. Mỹ không nên rơi vào
chiến tranh ủy nhiệm. Và quan trọng nhất, Mỹ không nên rơi vào một cuộc đối đầu
trực tiếp với CS Trung Hoa. Giới hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ phải
tự kiềm chế phản xạ theo dõi mọi hành động của CS Trung Hoa trên khắp thế giới,
giống như Truman tin rằng ông phải làm như thế đối với Stalin. Lối suy nghĩ này
đã buộc các nhà chiến lược thời Chiến tranh Lạnh của Hoa Kỳ phải cam kết gấp
đôi và gấp ba với cuộc chiến bi thảm, không cần thiết ở Việt Nam. Ngày nay, người
Mỹ biết rằng họ không cần phải kiềm chế chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam để đánh bại
Liên Xô.
(Tiện đây tưởng cũng nên nhắc lại, người Đông Âu –
người Ba Lan, người Nga, người Ukraine và nhiều người khác – đã đóng vai trò
trung tâm trong việc đánh bại chủ nghĩa cộng sản Liên Xô và kết thúc Chiến
tranh Lạnh, chứ không phải người Mỹ.)
Nói cách khác, không bao
giờ ngừng đặt vấn đề và đánh giá mối đe dọa. Liệu tự do và dân chủ có thực sự bị
tấn công trên toàn thế giới nếu Lào hoặc Rwanda nhập cảng dụng cụ Internet do
CS Trung Hoa sản xuất hay không? Hoặc thể giớ sẽ sụp đổ nếu CS Trung Hoa phát
triển các dự án trong Sáng kiến Một Vành đai Một Con đường ở Ghana hoặc Ý hay không? Mọi công dân CS Trung Hoa ở
Hoa Kỳ có nên bị
coi là gián điệp hay không? Bằng cách cố gắng kiềm chế CS Trung Hoa ở
mọi nơi, Washington có thể làm suy yếu việc be bờ ở những khu vực mà lợi ích an
ninh quốc gia quan trọng của chúng ta thực sự đang bị đe dọa. Và như Chiến
tranh Lạnh đã cho thấy, thành công sẽ phụ thuộc không nhỏ vào khả năng cải thiện
ở nội đia Hoa Kỳ — để thúc đẩy đổi mới và R & D cũng như đầu tư vào giáo dục,
y tế, cơ sở hạ tầng và dân chủ. Washington cần mất ít thời gian hơn để cố gắng
qua mặt đối thủ và dành nhiều thời gian hơn để cố gắng trở thành một lực sĩ giỏi
hơn.
Trích lại lời ông Pompeo,
Hoa Kỳ phải hiểu CS Trung Hoa “như nó là,” chứ không phải như một số người ở
Washington muốn nó như thế nào. Chính quyền Trump chắc chắn muốn một thấy một
nhân vật lãnh đạo theo chủ nghĩa Stalin phụ trách ở Bắc Kinh, nếu chỉ để huy động
và đoàn kết người Mỹ chống lại ông ta. Nhưng CS Trung Hoa “như nó là” không do
một Stalin mới cai trị. Khăng khăng nói khác đi sẽ không thay đổi thực tế đó và
sẽ cản trở việc thiết lập một chính sách tinh vi, thành công của Hoa Kỳ nhằm kiềm
chế, ngăn chặn và đối đâu với CS Trung Hoa về lâu về dài.
© 2020 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn
và đọc “Thể lệ trích đăng lại
bài từ DCVOnline.net”
Nguồn:
How a Lazy Historical
Analogy Derailed Washington’s China Strategy
August 10, 2020
[1] Cục thông tin cộng sản quốc tế (1947
1956)
No comments:
Post a Comment