19/06/2020
Trong Thế Vận 1968 ở Mexico City, trên bục nhận huy
chương, từ trái: Peter Norman, Tommie Smith và John Carlos. Cả 3 người mang nơi
ngực trái huy hiệu Dự Án Thế Vận Vì Nhân Quyền, đòi bình đẳng sắc tộc. Hai lực
sĩ da đen đi chân trần, đưa tay chào kiểu Sức Mạnh Đen.
*
(Bài này bản gốc viết
bằng tiếng Ý của nhà văn Riccardo Gazzaniga trên báo griotmag.com ngày
10/10/2015, được Alexa Combs Dieffenbach dịch sang tiếng Anh, và Phan Tấn Hải dịch
sang tiếng Việt.)
*
Đôi khi hình ảnh lừa gạt
người xem. Thí dụ, như tấm ảnh này. Hai vận động viên da đen John Carlos và
Tommie Smith đứng cuối đầu, đưa một tay lên cao, vào ngày họ lãnh huy chương chạy
200 mét tại Thế Vận Mùa Hè 1968 ở thành phố Mexico City, và tấm ảnh này đã lừa
gạt tôi trong thời gian dài.
Tôi luôn luôn nhìn tấm ảnh
đó như một hình ảnh mạnh mẽ của hai người đàn ông da đen, chân trần, với đầu cuối
xuống, các bàn tay mang găng đen đưa cao lên trong khi nhạc trổi lên quốc ca
Hoa Kỳ, bản “The Star-Spangled Banner.” Đó là một cử chỉ biểu tượng mạnh mẽ --
đấu tranh vì dân quyền cho người Mỹ gốc Phi trong một năm mà các thảm kịch xảy
ra, trong đó có cái chết của Martin Luther King và Bobby Kennedy.
Đó là tấm hình lịch sử của
2 người đàn ông da màu. Do vậy, tôi chưa bao giờ thực sự chú ý tới người đàn
ông kia, da trắng, giống tôi, bất động nơi bậc thứ nhì của bục nhận giải thưởng
đó. Tôi xem người kia như một hiện diện tình cờ, phụ thêm trong khoảnh khắc của
Carlos và Smith, hay là một kiểu như người chen vào. Thực sự, tôi còn đã nghĩ rằng
người đó --- trông như dường chỉ là một người Anh quốc cười gượng --- trong kiểu
đứng bất động lạnh lẽo như đại diện cho các ý chí muốn chống lại sự thay đổi mà
Smith và Carlos đang đưa lên trong hành động phản đối lặng lẽ. Nhưng tôi đã nhầm.
Nhờ một bài báo cũ của
Gianni Mura, hôm nay tôi khám phá ra sự thực: rằng người đàn ông da trắng trong
tấm ảnh đó, có lẽ, là vị anh hùng thứ ba trong đêm đó của năm 1968. Tên vận động
viên đó là Peter Norman, một lực sĩ Úc chạy kỳ thi chung kết 200 mét sau khi chạy
đường bán kết với thời lượng tuyệt vời 20.22 giây đồng hồ. Chỉ có 2 người Mỹ,
tên là Tommie “The Jet” Smith và John Carlos, đã chạy nhanh hơn với tốc độ,
theo thứ tự là 20.14 và 20.12 giây đồng hồ.
Như dường rằng chiến thắng
sẽ được quyết định giữa 2 người Mỹ. Norman là một vận động viên chạy vô danh,
người như dường vừa mới chạy cho nóng người. Vài năm sau, John Carlos nói rằng
anh được hỏi về những gì đã xảy ra cho người lực sĩ da trắng nhỏ con đó --- đứng
cao chỉ 5’6”(= 1.68 mét) và chạy cũng nhanh như anh và Smith, cả hai đều cao
hơn ở mức 6’2” (1.8796 meters).
Tới khi chạy tuyến chung
kết, kẻ bên lề có tên là Peter Norman đã chạy nhanh kỷ lục, tốc độ là 20.06
giây đồng hồ, nhanh nhất đối với bản thân và vẫn là kỷ lục nhanh với Úc châu tới
giờ, 47 năm sau (bài này viết năm 2015).
Tượng đài xây năm 2003 ở khuôn viên đại học San Jose
State University, chỉ có 2 lực sĩ da đen chân trần. Vị trí của Norman được bỏ
trống để khách tới có thể đứng vào chỗ trống để chụp hình, vì chính nghĩa bình
đẳng.
Nhưng kỷ lục đó vẫn chưa đủ, vì Tommie Smith thực sự là “The Jet” (phi cơ phản lực) và Smith vượt hơn kỷ lục Úc châu của Norman với một kỷ lục thế giới. Ngắn gọn, đó là một cuộc thi chạy tuyệt vời.
Nhưng cuộc thi chạy đó sẽ
không bao giờ được ghi nhớ như chuyện xảy ra tại lễ trao huy chương.
Không lâu sau cuộc thi chạy
là người ta thấy một chuyện lớn chưa từng có đã xảy ra trên bục lãnh huy
chương. Smith và Carlos quyết định rằng họ muốn cho toàn thế giới thấy cách họ
đấu tranh cho nhân quyền, và cho tiếng nói là truyền bá khắp các lực sĩ.
Norman là người da trắng
từ Úc châu, một quốc gia có luật phân biệt chủng tộc gay gắt (apartheid laws),
gần nghiêm khắc như ở Nam Phi. Đã có căng thẳng và biểu tình trên đường phố Úc
châu sau khi có hạn chế nặng nề việc đón nhận người da màu nhập cư và về luật kỳ
thị chống lại dân nguyên trú, một số trong đó bao gồm việc cưỡng bách trẻ em
nguyên trú đưa làm con nuôi trong các gia đình da trắng.
Hai vận động viên Mỹ đã hỏi
Norman rằng anh có tin vào nhân quyền hay không. Norman trả lời rằng anh tin. Họ
hỏi Norman tiếp rằng anh có tin vào Thượng Đế không, và anh, người trước đó hoạt
động trong tổ chức Salvation Army (Đạo Binh Cứu Rỗi), nói rằng anh tin mãnh mẽ
vào Thượng Đế. John Carlos nhớ lại rằng, “Chúng tôi biết ngay rằng chúng tôi sắp
làm một hành động vĩ đại hơn bất kỳ thành tích lực sĩ nào, và anh ta [Norman]
nói, ‘Tôi sẽ đứng với 2 bạn’ – Tôi dự kiến sẽ nhìn thấy nỗi sợ trong mắt
Norman, nhưng thay vào đó chúng tôi nhìn thấy sự thương yêu.”
Smith và Carlos trước đó
đã quyết định đứng trên bục giải thưởng trong khi mang huy hiệu của Olympic
Project for Human Rights (Dự Án Thế Vận Vì Nhân Quyền), một phong trào của các
lực sĩ hỗ trợ cuộc chiến đòi bình đẳng [màu da].
Họ sẽ lãnh huy chương
trong khi để chân trần, biểu tượng sự đói nghèo vây quanh người da màu. Họ sẽ
mang găng tay đen nổi tiếng, biểu tượng cho chính nghĩa của nhóm Black Panthers
(Báo Đen). Nhưng trước khi bước lên bục huy chương, họ nhận ra họ chỉ có một cặp
găng tay đen. Norman mới nói, “Mỗi người một chiếc [găng].” Smith và Carlos đón
nhận lời khuyên đó.
Nhưng rồi Norman làm một
chuyện khác. Norman vừa chỉ vào huy hiệu Olympic Project for Human Rights trên
ngực 2 lực sĩ Mỹ vừa hỏi, “Tôi tin vào điều hai bạn tin. Bạn còn có một huy hiệu
nào cho tôi không? Như thế tôi có thể bày tỏ sự ủng hộ của tôi đối với chính
nghĩa của hai bạn.” Smith thú nhận là lúc đó kinh ngạc, nghĩ rằng, “Thằng cha
da trắng Úc châu này là ai vậy? Nó thắng huy chương bạc, nó không thể thấy nó
chỉ cầm huy chương và thế là đủ sao!”
Smith trả lời rằng anh
không có dư huy hiệu, cũng vì anh sẽ không bị từ chối huy hiệu của anh. Lúc đó
có một lực sĩ da trắng Hoa Kỳ bên cuộc thi chèo thuyền, tên là Paul Hoffman, một
nhà hoạt động cho phong trào Olympic Project for Human Rights. Sau khi nghe được,
Hoffman không do dự, nghĩ ngay: “Nếu một người Úc da trắng hỏi xin tôi huy hiệu
Olympic Project for Human Rights, thì Chúa ơi anh ta sẽ có. Tôi sẽ tặng anh này
cái duy nhất tôi có: cái của tôi.”
Ba lực sĩ bước ra sân và
bước lên bục huy chương: phần còn lại là lịch sử, được giữ lại nhờ sức mạnh tấm
hình chụp lại (huy hiệu nhìn thấy trong hình là vòng tròn nền trắng có khắc chữ
và hình đeo nơi ngực trái ba lực sĩ). Norman kể lại, “Tôi không có thể nhìn thấy
chuyện xảy ra, nhưng tôi đã biết trước rằng ba người chúng tôi đều theo đúng kế
hoạch khi một giọng trong đám đông cất tiếng hát bản quốc ca Hoa Kỳ nhưng rồi
giọng hát dịu xuống, dứt bặt. Cả sân vận động lặng im như tờ.”
Trướng phái đoàn Thế Vận
Hoa Kỳ thể là các lực sĩ này sẽ phải trả giá trọn đời họ vì cử chỉ đó, một cử
chỉ ông nghĩ là không liên hệ gì tới thể thao. Smith và Carlos tức khắc bị ngưng
trong phái đoàn Thế Vận Hoa Kỳ và bị trục xuất ra khỏi Làng thế Vận, trong khi
lực sĩ đua thuyền Hoffman bị cáo buộc tội âm mưu.
Khi về Mỹ, hai người đàn
ông chạy nhanh hàng đầu thế giới bị truy bức nặng nề và bị hăm dọa ám sát.
Nhưng với thời gian,
trong tận cùng, đã chứng minh rằng họ đã làm điều phải và họ trở thành các nhà
vô địch trong cuộc chiến vì nhân quyên. Với hình ảnh được hồi phục, họ đã hợp
tác với hội Vận Động Viên Hoa Kỳ, và một bức tượng của họ được dựng lên trong
khuôn viên đại học San Jose State University. Nhưng Peter Norman vắng mặt trong
tượng đài này. Việc Norman vắng mặt [trên tượng đài] trông như bia mộ của một
anh hùng mà không ai từng ghi nhận. Một lực sĩ bị bỏ quên, bị xóa khỏi lịch sử,
ngay cả tại Úc châu, nơi đất nước của anh.
Sau đó 4 năm, tại Thế Vận
Mùa Hè 1972 tổ chức tại Munich, Đức quốc, Norman không được cho vào đội lực sĩ
chạy điền kinh của Úc, bất kể anh từng chạy đủ điều kiện 13 lần cuộc thi chạy
200 mét và 4 lần cuộc thi chạy 100 mét.
Norman đã rời bỏ sự nghiệp
lực sĩ chạy thi sau nỗi thất vọng này, chỉ tiếp tục chạy ở mức độ tài tử.
Trở về trong một nước Úc
bảo thủ và bị tẩy trắng, Norman bị xem như kể ngoài lề, gia đình anh bị xem như
mạt hạng, và việc làm không thể tìm được. Có một lúc, Norman làm việc như một
thầy dạy thể dục trong phòng gym, tiếp tục cuộc chiến chống bất bình đẳng trong
cương vị người hoạt động nghiệp đoàn, và thỉnh thoảng làm việc trong một tiệm
chặt thịt. Thế rồi Norman bị một vết thương, gây ra nhiễm trùng hoại cơ, dẫn tới
việc anh trầm cảm và nghiện rượu.
Như lời John Carlos,
“Trong khi chúng tôi bị bầm dập, thì Peter Norman đối mặt với cả đất nước của
anh và đơn độc đau khổ.” Trong nhiều năm, Norman chỉ có một cơ hội duy nhất để
tự cứu: Norman được khuyến dụ là hãy lên án hành vi của hai lực sĩ kia, John
Carlos và Tommie Smith, để bù lại Norman sẽ được hệ thống này ân xá, miễn truy
bức.
Việc ân xá sẽ có thể cho
Norman tìm được việc làm ổn định nhờ tổ chức Ủy Ban Thế Vận Úc Châu và sẽ được
là một phần tử trong tổ chức Thế Vận 2000 Sydney (2000 Sydney Olympic Games).
Nhưng Norman không bao giờ ân hận, và không bao giờ lên án sự lựa chọn của 2 lực
sĩ Mỹ kia.
Norman là lực sĩ Úc chạy
nhanh nhất trong lịch sử và vẫn là người giữ kỷ lục 200 mét, nhưng Norman không
được mời vào Thế Vận ở Sydney. Chính lúc đó, Ủy Ban Thế Vận Hoa Kỳ khi biết
chuyện đã mời Norman tham dự trong nhóm của họ và đã mời Norman dự tiệc sinh nhật
nhà vô địch Thế Vận Michael Johnson, người đã ngưỡng mộ Peter Norman như là một
anh hùng và là mô hình gương mẫu.
Peter Norman từ trần
tháng 10/2006 vì bệnh tim. Hai bạn lực sĩ da đen từ Hoa Kỳ sang Úc khiêng quan
tài từ biệt.
Peter Norman đột tử vì bệnh tim trong năm 2006, mà không hề được đất nước của anh xin lỗi vì đã xử tệ bạc với anh. Trong tang lễ của anh, Tommie Smith và John Carlos, những người bạn của Norman kể từ khoảnh khắc đó của năm 1968, là hai người khiêng quan tài cho anh, đưa tiễn anh như một anh hùng.
John Carlos nói, “Peter
Norman là một chiến sĩ cô đơn. Một cách ý thức, anh đã tự lựa chọn làm con cừu
hiến tế trong khi nhân danh nhân quyền. Không có ai khác hơn anh xứng đáng để
Úc châu nên vinh danh, công nhận và biết ơn.”
Tommie Smith nói, “Norman
đã trả giá với lựa chọn của anh. Đó không chỉ là một cử chỉ đơn giản để giúp
chúng tôi, đó là cuộc chiến CỦA ANH TA. Anh ta là một người da trắng, một người
đàn ông da trắng Úc Châu giữa hai người đàn ông da màu, đứng thẳng trong khoảnh
khắc chiến thắng đó, tất cả [ba người] đều nhân danh cùng một chính nghĩa.”
Tình bạn lực sĩ vượt
qua màu da ở Làng Thế Vận 1968.
Chỉ tới năm 2012, Hạ Viện Úc Châu chấp thuận một bản văn chính thức xin lỗi Peter Norman và ghi tên anh trở lại vào lịch sử với nội dung Hạ Viện:
“Công nhận thành quả thể thao xuất sắc
của cố vận động viên Peter Norman, người thắng huy chương bạc trong cuộc thi chạy
200 mét tại Thế Vận 1968 ở Mexico City, với thời lượng 20.06 giây đồng hồ, vẫn
còn là một kỷ lục Úc Châu.
“Công nhận lòng can đảm của Peter
Norman khi mang huy hiệu Olympic Project for Human Rights lúc đứng trên bục huy
chương, trong đoàn kết với các lực sĩ Mỹ gốc Phi Tommie Smith và John Carlos,
những người đã bày tỏ hình thức chào ‘sức mạnh da đen’.
“Xin lỗi Peter Norman vì những sai
trái Úc Châu đối xử khi gạt tên ông ra ngoài Thế Vận 1972 Munich, bất kể ông
liên tục đủ điều kiện thể thao; và tuy chậm trễ, nay công nhận vai trò mãnh liệt
mà Peter Norman đã thực hiện trong việc đòi hỏi bình đẳng sắc tộc.”
Tuy nhiên, có lẽ, những
chữ nhắc chúng ta về Peter Norman đầy đủ nhất là chính lời anh khi mô tả lý do
anh làm như thế, trong phim tài liệu nhan đề “Salute,” được viết, đạo diễn và sản
xuất bởi cháu trai của anh là Matt.
“Tôi không có thể nhìn thấy vì sao một
người da đen không có thể uống cùng nước từ một vòi nước, đi cùng một xe buýt
hay vào học cùng trường như một người da trắng. Có một sự bất công xã hội mà
tôi không có thể làm bất cứ gì từ nơi tôi ở, nhưng tôi hẳn nhiên là ghét bất
công đó. Người ta nói rằng khi chia sẻ huy chương bạc của tôi trong sự kiện đó
trên bục chiến thắng đó đã làm cho thành quả của tôi trật hướng. Ngược lại. Tôi
phải thú nhận, rằng tôi khá là hãnh diện khi là một phần của nó.”
Khi ngay cả bây giờ, như
dường cuộc chiến vì nhân quyền và bình đẳng có vẻ bất tận, và sinh mạng vô tội
đang bị giết đi, chúng ta phải nhớ những người đã tự hy sinh, như Peter Norman,
và tìm cách theo bước của họ. Bình đẳng và công lý không phải là cuộc chiến của
một cộng đồng đơn lẻ, nó là cuộc chiến của tất cả mọi người.
Do vậy, tháng 10/2015
này, khi tôi có mặt ở San Jose, tôi sẽ tới thăm tượng Olympic Black Power (Sức
Mạnh Đen ở Thế Vận) nơi khuôn viên đại học San Jose State University, và bục
huy chương không người đó sẽ nhắc tôi về Peter Norman, người anh hùng can đảm
chân thực nhưng đã bị bỏ quên.
Tác giả cập nhật ngày 13/10/2015: Tác giả viết một blog để đáp ứng với các lời
bình ông nhận được từ khi bài viết được chia sẻ ào ạt: " Nhà Văn Trong Bài
Viết Đó.”
Trang Films For Action cập nhật ngày 18/10/2015: Trong tuần lễ từ khi chúng tôi chia sẻ bài
viết, bài tuyệt vời này đã được hơn 4 triệu người đọc. Rõ ràng đây là một câu
chuyện làm rung động một cách phổ quát, làm thăng hoa và cho thấy mặt đẹp nhất
của bản chất con người. Đã có nhiều cuộc thảo luận về bài này từ đó, và một
trong các chủ đề là về tượng đài ở San Jose. Nơi tượng đài này, vị trí Peter
Norman đứng bị bỏ trống, làm nhiều người kêu gọi hãy thêm tượng Norman vào.
Nhưng đó lại không phải là điều Norman muốn. Trong cuộc phỏng vấn của Democracy
Now, lực sĩ John Carlos giải thích rằng Norman muốn chỗ anh đứng bỏ trống để bất
kỳ ai tới thăm tượng sẽ có thể đứng vào nơi đó và để chụp hình cho thấy họ đứng
đoàn kết với Smith và Carlos, y như Norman đã làm năm 1968. Peter Norman, chúng
tôi chào vinh danh anh.
(Bản văn gốc của
nhà văn Ý Riccardo Gazzaniga. Dịch sang tiếng Anh và bình luận do Alexa
Combs Dieffenbach. Phan Tấn Hải dịch sang tiếng Việt.)
No comments:
Post a Comment