Thùy
Dương -
RFI
Đăng
ngày: 24/04/2020 - 09:53
Trong những năm 1990, hoạt động của ngành công nghiệp
dược phẩm châu Âu và Mỹ đa phần chuyển sang Trung Quốc. Khi đại dịch Covid-19
bùng phát ở Trung Quốc, phương Tây tỉnh thức trong đau đớn và phải đối mặt với
thách thức làm thế nào để giành lại quyền chủ động về thuốc men, tránh phụ thuộc
vào Trung Quốc.
Mọi ngả đường đều dẫn đến Trung Quốc
Theo nhận định của báo Le
Figaro trong bài viết « Khi Tây phương từ bỏ ngành sản xuất dược
phẩm » đăng ngày 13/04/2020, sức khỏe của người dân phương Tây phụ
thuộc rất nhiều vào Trung Quốc và chính sự bùng phát toàn cầu của dịch bệnh
Covid-19 đã giúp người châu Âu và Mỹ « tỉnh ngộ ». Có
một điều các nhà khoa học, giới chuyên môn phần nào đã nắm rõ, nhưng đa phần
công chúng thì chưa biết : trong vòng chưa đến 30 năm, tất cả mọi quốc gia
trên thế giới, đi đầu là châu Âu và Mỹ, đã « nhường » một
phần lớn « chủ quyền » về thuốc men và trang thiết bị
y tế cho Trung Quốc. Quốc gia rộng lớn này trở thành xưởng bào chế hơn 80% hoạt
chất chính được dùng trong ngành sản xuất dược phẩm. Đáng nói hơn nữa là Trung
Quốc nắm giữ 80-90% dược liệu để bào chế ra các hoạt chất chính và các loại thuốc
thay thế các dược phẩm hiện giờ không còn được bào chế nữa.
Chẳng hạn, Trung Quốc sản
xuất tới 97% dược liệu và hóa chất cần thiết để sản xuất kháng sinh đồng dạng
(générique) tiêu thụ tại Mỹ - đối thủ địa chính trị của Trung Quốc. Ấn Độ cũng
là một nhà sản xuất dược phẩm được hưởng lợi lớn từ chính sách di dời ngành
công nghiệp dược phẩm của Tây phương, song suy cho cùng thì nền sản xuất Ấn Độ
cũng không thoát được cảnh phụ thuộc đến 80% vào hoạt chất chính do Trung Quốc
bào chế. Nói một cách hình ảnh như chuyên gia Rosemary Gibson của viện
Hastings, Mỹ, thì « Tất cả mọi con đường đều dẫn đến Trung Quốc ».
Bức màn bí mật thời « thị trường toàn cầu »
Cũng theo chuyên gia
Gibson, điều đáng ngạc nhiên là số liệu thống kê về lĩnh vực dược phẩm thường
được bao phủ bằng một bức màn bí mật cho dù chúng ta đang sống trong « một
thị trường toàn cầu ». Tuy nhiên, việc khan hiếm nói chung các loại
thuốc quan trọng sống còn vào lúc nhiều nhà máy của Trung Quốc phải ngưng hoạt
động, khiến chính phủ các nước yêu cầu phải có các số liệu chính xác. Từ tổng
thống Pháp Emmanuel Macron, nguyên thủ Nga Vladimir Putin cho đến lãnh đạo Mỹ
Donald Trump dường như đều có chung yêu cầu khôi phục lại nền sản xuất dược phẩm
và công nghiệp hóa học của quốc gia. Các nhà lãnh đạo cũng bắt đầu suy tính đến
việc đa dạng hóa và « hồi hương » các dây chuyền sản xuất quan
trọng.
Ông Bruno Bonnemain, chủ
tịch một nhóm làm việc về việc gián đoạn chuỗi cung ứng, cho Le Figaro biết là
tại Viện Dược Phẩm Quốc Gia Pháp, từ 10 năm nay, các nhà nghiên cứu đã gióng những
hồi chuông báo động về việc Pháp mất quyền tự chủ về dược phẩm do phụ thuộc quá
nhiều vào Trung Quốc và Ấn Độ. Chuyên gia Bonnemain giải thích là, ngay từ năm
2011, cơ quan này đã được huy động để tiến hành một nghiên cứu cho bộ Y Tế
Pháp. Theo báo cáo của Viện Dược Phẩm Quốc Gia, « đối với 86% bệnh
viện ở châu Âu, việc khan hiếm thuốc đã trở thành một chủ đề gây lo ngại hàng
ngày. Những loại thuốc có liên quan nhiều nhất là thuốc chống nhiễm trùng,
chống ung thư, tiếp theo đó là các loại thuốc hồi sức cấp cứu, thuốc tim mạch
và thuốc gây mê ».
PUBLICITÉ
Chiến lược yếu kém
Nhu cầu cao của các nước
mới mới trỗi dậy đã khiến nhu cầu thuốc trên toàn cầu khó được đáp ứng.
Ngoài ra, còn phải kể đến việc nhiều nhà máy phải ngưng sản xuất vì các vấn đề
liên quan đến biến đổi khí hậu, môi trường, kỹ thuật hay xã hội. Đó là chưa kể
đến các vụ tai tiếng về chất lượng thuốc, chẳng hạn héparin, chất làm loãng máu
được nhập khẩu từ Trung Quốc đã làm 81 người tại Mỹ thiệt mạng. Chuyên gia
Bruno Bonnemain lấy làm tiếc là « Không một ai đáp lại lời kêu gọi
của chúng tôi khi vẫn chưa quá muộn ».
Trong những năm 1980,
ngành công nghiệp dược phẩm của châu Âu vẫn rất mạnh. Khoảng 80% các hoạt chất
chính vẫn được sản xuất tại châu Âu, chỉ có 20% được nhập từ nước ngoài. Ấy vậy
mà sau 30 năm, hiện nay các con số này đã bị đảo ngược. Ông Bonnemain nhấn mạnh : «
Sự thay đổi lớn bắt đầu diễn ra trong những năm 1990, sau đó tăng tốc dần vào đầu
những năm 2000, khi các doanh nghiệp quyết định dịch chuyển ồ ạt vì chi phí
nhân công và các quy định về môi trường ».
Kế hoạch ban đầu là tất cả
đều được sản xuất tại một nơi. Thế nhưng, với sự cạnh tranh của thuốc đồng dạng
generique được sản xuất tại các nước đang phát triển, ngành dược phẩm đã thuê
thầu phụ cả mảng sản xuất dược liệu thô, hoạt chất và kể cả thuốc. Đó là thời
toàn cầu hóa theo kiểu đôi bên đều có lợi, cho phép một số doanh nghiệp cất
cánh và những công ty khác sản xuất với giá thấp. Từng hoạt động trong lĩnh vực
công nghiệp dược phẩm, ông Bonnemain nói thẳng : « Sai lầm lớn
nhất của các chính phủ của chúng ta là không coi các loại thuốc là sản phẩm chiến
lược nữa. Khi ưu tiên giá thành, họ đã để các doanh nghiệp muốn làm gì thì làm.
Quyền tự chủ đã bị từ bỏ ».
Quá lơ là về hóa hữu cơ
Đã có thời nước Đức, chứ
không phải Trung Quốc, được gọi là nhà máy dược phẩm và hóa chất của cả thế giới.
Nói về chuyện nước Đức dịch chuyển các nhà máy dược phẩm, giáo sư Stefan
Laufer, từng là chủ tịch hiệp hội Dược Sĩ Quốc Gia Đức cho đến tháng 12/2019,
có cùng phân tích như chuyên gia Pháp Bruno Bonnemain. Sự thay đổi cũng bắt đầu
từ đầu những năm 1990, và sự di chuyển lớn nền sản xuất sang Châu Á và đặc biệt
là tới Trung Quốc cũng diễn ra từ 10 năm nay. Ông Laufet tóm lược : « Do
áp lực từ các cơ quan bảo hiểm y tế Đức, thuốc trở thành một sản phẩm mà tiêu
chí quan trọng nhất là giá thành chứ không phải chất lượng ». Theo ông, yếu
tố môi trường là một lý do lớn dẫn đến việc dịch chuyển ngành hóa học hữu cơ, vốn
có lợi cho ngành công nghiệp hóa dược phẩm rất phát triển của Đức. Chuyên gia
Laufer lấy làm tiếc là Đức đã quá lơ là, bỏ bê các nhà máy hóa hữu cơ ».
Giáo sư Laufer nhấn mạnh : « Nước
Đức đã quá đề cao giá trị thị trường toàn cầu khi cho rằng không cần nghĩ tới sự
độc lập quốc gia bởi vì thị trường luôn được đáp ứng. Nhưng đó chỉ là một ảo tưởng.
Bây giờ không có thị trường toàn cầu. Nước nào cũng đóng cửa biên giới và đấu
đá nhau để giành giật khẩu trang và thuốc men ! » Cũng giống như
chuyên gia Pháp Bonnemain, giáo sư Đức Laufer đã gióng những hồi chuông báo động
ngay từ năm 2012. Quân đội Đức cũng đã lên tiếng cảnh báo về sự yếu kém về chiến
lược. Ông Laufer nhớ lại : « Chúng tôi đã đến Quốc Hội. Các bản
báo cáo được gửi đến rất nhiều. Nhưng chẳng ai quan tâm … »
Còn dân biểu Đức Claudia
Bernhard, thuộc đảng Die Linke, một người lưu tâm đến hồ sơ này, giải
thích : « Sự thiếu phản ứng của các cơ quan công quyền là do sự
tác động của các nhà vận động hành lang cho ngành dược phẩm », liên
quan đến việc các Quỹ bảo hiểm chịu trách nhiệm ký hợp đồng trực tiếp với các
nhà sản xuất thuốc. Dân biểu này lấy làm tiếc là « Sự thiếu vắng
hành động của chính phủ trung ương đã duy trì sự phụ thuộc về dược phẩm. Nhà
máy sản xuất thuốc kháng sinh cuối cùng tại Đức đã đóng cửa vào năm 2017. Nhà
nước cần cho tái thiết nền công nghiệp dược phẩm, quay lại bào chế các hoạt chất
chính. Nói thì dễ hơn làm, nhưng cuộc khủng hoảng không để cho chúng ta có sự lựa
chọn, đây là câu hỏi sống còn ». Dân biểu Claudia Bernhard lấy
làm mừng vì lãnh đạo Y Tế ở các bang của Đức cũng đề xuất theo hướng nói
trên.
Sự thức tỉnh đầy đau đớn
Liên quan đến nước Nga, một
nhà tư vấn của hãng tin RNC Pharma, Nikolai Bespalov, cho Le Figaro biết « một
cuộc di dời, tương tự những gì đến với phương Tây, đã xảy ra sau khi Liên Xô sụp
đổ, tạo ra sự phụ thuộc mạnh mẽ vào Trung Quốc và Ấn Độ (về các hoạt chất và dược
liệu thô, 50-70%) » Mối lo là có thật cho dù Nga vẫn có kho dự trữ.
Kể từ năm 2010, một nỗ lực dịch chuyển sản xuất về nước đã được khởi động và
chính phủ Nga hồi cuối tháng Hai đã quyết định thúc đẩy sản xuất trong ngành
hóa chất và dược phẩm.
Nhìn sang nước Mỹ, theo
Le Figaro, có môt sự tỉnh thức đầy đau đớn. Với virus corona, người
Mỹ mới nhận ra sức khỏe của họ phụ thuộc vào « đại địch thủ » Trung
Quốc như thế nào. Mặc dù Mỹ vẫn duy trì sản xuất những hoạt chất chính và các
nhà máy vẫn bào chế dược phẩm, nhưng Trung Quốc vẫn thống trị thị trường Mỹ về
dược liệu và các hoạt chất chính để sản xuất thuốc đồng dạng và kháng sinh đồng
dạng. Tình trạng này tạo ra sự suy yếu chiến lược nghiêm trọng cho nước Mỹ.
Trong một báo cáo của Hội
đồng quan hệ đối ngoại, nhà nghiên cưu Yang Zong Yuhan nhắc tới một cuộc trao đổi
ở Nhà Trắng mà nhà báo Mỹ Bob Woodward từng nới tới, theo đó kinh tế gia trưởng
Gary Cohn của Nhà Trắng lưu ý là trong cuộc chiến thương mại, Trung Quốc có thể
dùng thuốc kháng sinh để đáp trả Mỹ vì Trung Quốc cung cấp tới 97 % lượng
kháng sinh tiêu thụ tại Mỹ : « Nếu quý vị là người Trung Quốc
và quý vị muốn hủy hoại nước Mỹ, đơn giản quý vị chỉ cần ngưng gửi thuốc kháng
sinh cho chúng tôi ».
Nhà nghiên cứu Rosemary
Gibson của viện Hastings nhấn mạnh virus corona càng khiến Mỹ có ý thức về sự
phụ thuộc nói trên. Tân Hoa Xã hôm 04/03 nhận định kịch bản Trung Quốc ngưng xuất
khẩu thuốc men sang Mỹ sẽ gây khó khăn cho Mỹ, « nhấn chìm nước Mỹ
trong đại dương virus corona ». Nhiều nhà chiến lược Mỹ có ý tưởng tách rời
nền kinh tế Mỹ khỏi Trung Quốc. Tại Hạ Viện, một nhóm dân biểu Dân Chủ và Cộng
Hòa đề xuất một dự luật nhằm khuyến khích việc « hồi hương » một
số dây chuyền sản xuất thuốc.
Tuy nhiên, tất cả các
chuyên gia về hồ sơ này đều lưu ý về những khó khăn liên quan đến thời hạn, chi
phí, kiến thức hiểu biết để tái lập nền sản xuất. Chuyên gia Đức Laufer cũng tỏ
ý hoài nghi về lâu dài : « Việc này sẽ phải mất nhiều năm, các quy
trình sản xuất hóa học tinh khiết rất phức tạp, nhất là phải sáng chế ra các
công nghệ riêng để đảm bảo tôn trọng tiêu chuẩn xanh (…) Việc này đương
nhiên sẽ phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa các nước châu Âu, bởi vì các nước
không thể sản xuất toàn bộ chỉ trong nước họ (…) Tất cả những điều trên đòi hỏi
có sự thay đổi thực sự trong tư duy. »
No comments:
Post a Comment