04/04/202010:45:00
Thiếu Tá Lê Hữu Nhân với giọng nói đều đều, có vẻ mệt
mỏi vì mất ngủ, anh tự giới thiệu và nói về quá trình anh đi trình diện vào ngày
ba mươi tháng Tư bảy lăm:
- Tôi là lính địa phương quân đóng ở Bến Tre trước bảy
lăm. Tôi bị đưa đi tù cải tạo tận ngòai Bắc: Hoàng Liên Sơn rồi Lào Kai. Đầu
năm tám mươi họ chuyển chúng tôi về Nghệ Tĩnh, Lý Bá Sơ. Cuối năm tám mươi tôi
được ‘lệnh tha’ thuôc diện sức khỏe. Đi tù cải tạo ở ngòai Bắc
nghề chính của tôi là sẻ gỗ. Tôi bị tai nạn cây đè, gẫy kín xương đùi trái…
Đoạn anh đưa tay phải lên cao choàng vai người bạn
ngồi bên cạnh, rồi anh bảo:
- Nhờ đi tù cải tạo tận ngòai Bắc mà tôi được biết
anh Phùng này đây. Chúng tôi ở cùng chung một trại từ Hoàng Liên Sơn…
Nói đến đây, anh và anh Phùng, hai người ôm nhau
cùng cười. Anh Phùng cảm động, cố nuốt nước bọt, giọng anh ngậm ngùi:
- Nguyên tôi là Đại úy, Lực Lượng Đặc Biệt, đóng ở
Vùng Ba Biên Giới, tiếp liệu và liên lạc với bên ngoài hoàn toàn bằng trực
thăng. Việt cộng dùng đặc công đánh úp đồn. Tôi bị bắt. Gia đình được khai báo
tôi bị mất tích, xem như đã chết. Vợ tôi lãnh ‘tiền tử’. Khi bị bắt, tôi thuộc
diện tù binh, nhưng đến bảy lăm cộng sản chuyển tôi sang chế độ học tập cải tạo.
Năm bảy sáu họ chuyển tôi ra tận ngoài Bắc, nên mới được ở chung với ông thiếu
tá Lê Hữu Nhân này đây. Khi cấp cứu anh Nhân bị gẫy kín xương đùi tại Lào Kai,
có tôi. Chính ở Lào Kai tôi và anh Nhân hái được trái “mắc cọp”,
trái cây quí của người Bắc. Xin lỗi anh em, tên nó nghe không thơm lắm, nhưng
khi ăn không đến nỗi nào. Câu chuyện trái “mắc cọp” vì cái tên
vô duyên của nó làm cho anh em tòan nhóm điều trị cười một trận.
Sau đó thiếu tá Nhân tiếp nối câu chuyện về anh:
- Sự thật thì cho tới năm bảy lăm tôi vẫn còn là tiểu
đoàn trưởng tiểu đoàn 552 Địa Phương Quân, tỉnh Bến Tre. Bộ chỉ huy của tiểu
đoàn đóng ở rừng Rạch Rợp, dựa lưng vào sông Ba Lai. Địa bàn hoạt động của tiểu
đòan gồm 16 xã thuộc quận Ba Tri. Sau khi Tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết vào
đêm 30 tháng Tư bảy lăm, cũng như các sĩ quan của các đơn vị quân đội Vùng 4,
chúng tôi buông súng và đi trình diện tại quận Ba Tri. Đến trình diện, thoạt
tiên thấy cộng sản họ cũng tử tế. Họ đội nón tai bèo có, nón cối có, đến ân cần
nói chuyện với các sĩ quan trình diện. Tất cả họ đều nói một câu mà hình như có
ai dạy cho họ và họ thuộc lòng sẵn trong bụng. Họ bảo anh em chúng tôi: “Các
anh phải thật thà, thành khẩn mà khai báo, đừng có khai man tên họ, lý lịch và
chức năng của mình. Cách mạng có cái nhìn thấu suốt tam đại, tứ đại của các
anh”. Một anh chiến binh cộng sản coi còn trẻ, chừng mười bảy, mười tám, đội
mũ tai bèo, nói giọng Bắc, đến nhẹ nhàn hỏi tôi và ghi tên họ cùng chức
năng Tiểu đoàn trưởng của tôi. Một ông sĩ quan của họ, đội nón
cối và cũng người miệt ngoài đó, đến cúi xuống trên tờ kê khai lý lịch của tôi,
đóng khung bằng mực đỏ chức năng Tiểu đoàn trưởng của tôi. Đoạn
ông ta ngước ngược tròng con mắt lên nhìn tôi, cái nhìn sắc lạnh xuyên suốt cột
sống tôi. Cái nhìn ghê rợn ấy có sức ám ảnh tôi. Mãi đến bây giờ đôi khi tôi vẫn
nhìn thấy lại trong những cơn ác mộng. Nói thật với các anh em, lúc đó tôi đã
thấy cái gì bất ổn cho riêng tôi…
Làm xong mọi thủ tục, họ bảo: “các anh ai về
nhà nấy, và chờ lệnh gọi tập trung”.
Trên đường về nhà, tôi suy nghĩ thật mông lung. Tôi
có cảm tưởng mình là con cá nằm trên thớt đang giãy dụa. Tôi gặp thượng sĩ Long
đang chạy xe Honda. Nó là thượng sĩ già, kinh nghiệm, từng trải, trước sau như
một, trung hậu với tôi. Tôi đem chuyện kể cho nó nghe. Nó có vẻ sợ cho tôi, nó
bảo:
- Hay ông thầy về trình diện ở thị xã Kiến Hòa cũng
không muộn. Ở đó có người có ta, chớ ở quận Ba Tri này, chỉ có ông
thầy là lớn. Ngại lắm…
Tôi còn mãi cân nhắc, thượng sĩ Long vụt nói:
- Giờ này không còn ai dám chạy xe lôi xe lam rước
khách cả. Được, tôi chở ông thầy đi Kiến Hòa bằng xe Honda của tôi.
Chỉ vỏn vẹn có 5 phút, nó ghé nhà cho vợ nó hay. Nó
bảo tôi ngồi sau lưng nó, ôm nó thật chặt. Nó chở tôi một mạch về Kiến Hòa.
Trên đường vảo thị xã Kiến Hòa tôi gặp Trung tá Bùi Tấn Bửu mới hôm qua
ông còn là Tham mưu trưởng Tiểu khu Kiến Hòa, bây giờ ông mặc thường phục, dân
sự, chân mang dép, đang đi lẹt xẹt trên vỉa hè đường phố. Tôi liền đến trình
bày với ông ta về sự thể của tôi tại Ba Tri. Ông ta hơi ngại cho tôi. Ông ta bảo:
- Ở quận Ba Tri không ai mà không biết anh. Thì cũng
đành vậy thôi.
Lúc ấy trông mặt ông ta có vẻ căng ra. Mồ hôi rịn
trên trán, ông vụt hỏi tôi:
- Quê anh ở Sa-đéc? Còn sớm chán, về ngay quê quán
mình mà trình diện cho có bà con và cũng có vẻ thật thà hơn.
Chớ ở Bến Tre này anh cũng biết ngại lắm, chính tôi cũng không biết thân phận của
tôi ngày mai ra sao?
Tên Thượng sĩ già của tôi cũng chụp nói vào:
- Đúng rồi đó ông thầy. Tôi đưa ông thầy xuống phà,
xong tôi bốc ông thầy lên ngã ba Trung Lương để ông thầy đón xe đò về bến phà Mỹ
Thuận rồi thẳng về Sa Đéc nội trong ngày, trước hai hay ba giờ chiều nay.
Tôi bắt tay từ giã trung tá Bùi Tấn Bửu. Chúng tôi
chưa hề bắt tay nhau ngỡ ngàng như vậy, không phải là lời chào vĩnh biệt, cũng
không phải lời hẹn tái ngộ. Có gì bẽ bàng cho thân phận chúng tôi.
Ngã ba Trung Lương, một ngã ba sầm uất, nhộn nhịp của
các tỉnh phía Nam Saigòn. Nó nằm bên này sông Tiền trên trục giao thông của các
tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Nó nối liền đường về các tỉnh miền Tây, đường
đi Mỹ Tho,Vĩnh Long, bến phà Mỹ Thuận, về Sa Đéc và Đồng tháp v.v…Cách nó không
xa là căn cứ Đồng Tâm, Hậu Cần Quân Khu 4. Và cũng cách nó không xa là Bộ Tham
Mưu của Sư đòan 7. Hôm nay, tại ngã ba Trung Lương, người qua kẻ lại có vẻ bối
rối khác thường. Ai cũng có bộ mặt thản thốt, ngỡ ngàng. Những anh em binh sĩ
quân đội Việt Nam Cộng Hòa mới hôm qua, hôm nay mặc đồ dân sự, chân mang dép, đứng
nhìn sững sờ các chú lính giải phóng, đội nón tai bèo, lái xe jeep chạy tứ
tung, vô kỷ luật. Họ không biết lái, họ húc phải người, tung cả quán hàng. Có
xe bị lật bên đường. Có xe hết xăng bỏ ngay giữa con lộ. Nhìn lại, đó là những
chiếc xe nhà binh mà các bộ đội giải phóng lấy tại căn cứ Đồng Tâm và Bộ Tham
Mưu Sư đòan 7. Có người lính giải phóng đội nón tai bèo, đứng trên xe jeep la lớn
bằng giọng Bắc Kỳ: “Đó là qui luật của chiến tranh”, và anh ta
chĩa súng AK lên trời bắn đùng đùng. Tôi thấy buồn lắm. Buồn lắm các anh em…Mới
hôm qua cả Quân Đòan 4 đều nắm vững tay súng, chủ động trên khắp chiến trường,
làm chủ trong mọi tình thế. Đêm qua Tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết tại Cần
Thơ, cả Quân Đòan 4 sụp đổ. cộng sản chiếm cả Vùng 4 không tốn một viên đạn.
Tôi cảm thấy mất mát quá nhiều. Tôi vô cùng xấu hổ khi thấy mình cải trang
trong bộ đồ dân sự, chân mang dép. Tôi thấy thương mình vô hạn. Tôi còn trẻ.
Tôi mới 32 tuổi, Tiểu Đoàn Trưởng! Cuộc đời binh nghiệp của tôi chấm dứt sớm và
thê thảm như vậy sao? Tôi nghĩ đến Tú, vợ tôi. Tôi yêu Tú vô hạn. Tôi nhớ các
con tôi. Có lẽ giờ này tất cả mẹ con đang ngóng mong tôi tại Sa Đéc. Cầm lòng
không được, nước mắt dâng tràn…
Không muốn để tâm tình xúc
động của các anh em kéo dài, tôi bèn lên tiếng yêu cấu Thiếu tá Nhân tiếp tục
câu chuyện từ ngã ba Trung Lương về Sa Đéc.
Thiếu tá
Nhân bậm môi, cố gắng lấy hết can đảm mới đủ bình tĩnh tiếp nối câu chuyện của
mình:
- Như các anh biết, lúc đó xe chạy rất ít. Tôi có ý
sợ không có xe về sớm để kịp giờ trình diện. May quá lúc đó một chiếc xe
nhà binh GMC cũng đang chạy trờ tới. Trên xe có mấy anh em bộ đội giải phóng đội
nón cối, cũng có những người đàn ông đàn bà mặc đồ dân sự. Tôi liền đưa tay đón
chiếc xe lại. Khi đến gần, họ ngừng xe lại, tôi thấy người tài xế lại là chú
lính Việt Nam Cộng hòa. Tôi mạnh dạn hỏi lớn:
- Cho quá giang về phà Mỹ Thuận có được không?
Một anh bộ đội giải phóng, nói giọng Bắc la lớn:
- Nào! Lên đi nào. Khẩn trương lên. Trưa cả rồi.
Một cánh tay đưa xuống kéo tay tôi lên. Khi
bàn tay tôi chạm phải bàn tay anh, tôi thấy tay áo anh làm bằng vải kaki xanh
Nam Định. Tim tôi se lại. Dưới màu kaki xanh Nam Định này, tôi đã nhiều lần
nhìn thấy trên chiến trường những xác chết trẻ trung dưới hai mươi tuổi, trên
ngực họ, trên tay họ hay trên lưng họ có xâm hàng chữ “Sanh Bắc, Tử
Nam”.
Xe chạy…chạy xa ngã
ba Trung Lương. Mọi người ngồi trong xe đều im lặng. Hình như mỗi người đang
theo đuổi những ý nghĩ riêng tư của mình. Ai cũng có vẻ ngỡ ngàng khi chạm phải
mắt nhau. Xe chạy qua những thôn xóm quen thuộc tôi đã từng qua lại nhiều lần từ
thuở thiếu thời, cắp sách đến trường gặp thầy, gặp bạn. Hôm nay nay trông quạnh
vắng lạ thường. Trường học đóng cửa không một bóng dáng học trò, chợ búa tiêu
điều không ai nhóm, nền gạch trơ, phất phơ mấy miếng lá chuối khô bay. Có lúc
trên xe im phăng phắc. Hình như ai cũng đang chờ đợi cái gì. Sau những năm chiến
đấu ồn ào với súng đạn, bây giờ tôi mới hiểu im lặng là cái đáng sợ. Nhất là
cái im lặng sau cuôc chiến, cái im lặng chứa đầy tử khí, ngạo nghễ và phản
kháng. Các anh bộ đội miền Bắc, có lúc cố gắng pha trò để đỡ buồn đỡ căng thẳng.
Có anh nhái giọng Nam bộ, hỏi người trên xe: “Mần sao? Bà con làm một
chuyến du lịch từ Rạch Miễu đến phà Mỹ thuận trên chuyến xe đò Cách mạng kỳ này
chắc ‘dzui’ lắm hả”?
Câu pha trò của anh rơi vào khỏang không. Tôi gượng
gạo, nhìn bâng quơ ra ngoài. Làng mạc ruộng vườn bao la một màu xanh rờn vắng
bóng người nông phu, chỉ có những cánh cò bay lặng lẽ.
Chợt anh tài xế la lớn;
- Đến bến phà rồi bà con.
Tôi vội vàng cám ơn mọi người và nhảy xuống xe trước
nhất. Một cánh tay cầm khẩu AK của anh bộ đội giăng ra chận tôi lại. Tôi hốt hoảng
không biết xử trí như thế nào; nhưng với phản xạ tự nhiên của người lính, bàn
tay phải của tôi đã sẵn trong túi quần, lúc ấy ngón tay cái của tôi đã nằm sẵn
trên khóa an toàn, và ngón tay trỏ của tôi lúc đó cũng đã sẵn sàng nằm trên cò
của khẩu Colt 12 mà tôi lận rất kỹ trong người và nó sẵn sàng nổ!
Anh chàng bộ đội, nhấm ghiền đôi mắt lại, ngước cổ
cao lên và la lớn:
- Ối giời! Chúng tôi đèo anh từ ngã ba Trung Lương đến
tận đây, thì anh phải trả tiền chứ, sao lại cám ơn ‘không’ đâu
có được?
Nói thật, lúc đó tôi mới lấy lại bình tĩnh. Tôi từ từ
rút bàn tay phải ra khỏi túi quần có dính theo tờ giấy bạc 500 đồng đưa cho anh
bộ đội và nói cám ơn anh ấy.
Trên đường tôi ngồi tiếp xe lôi về nhà, tôi nhớ lại
câu nói của anh bộ đội:“Tôi đèo anh”, tôi cười một mình. Mãi sau này đi
tù cải tạo tại miền Bắc tôi mới hiểu được nghĩa của chữ đèo. Chiến
thắng Miền Nam, đối với các anh nhanh quá. Các anh ngỡ ngàng như còn trong mơ.
Các anh chở chúng tôi trên chiếc xe hơi nhà binh GMC mà các cứ tưởng là các anh
đang đèo chúng tôi trên chiếc trên chiếc xe đạp thồ trên con
đường quê nào đó tại miền-Bắc-xã- hội-chủ-nghĩa.
Về đến Sa Đéc, trước khi đến nhà, đi ngang qua một
công đất bỏ hoang, cây cối um tùm, có con lạch nhỏ, nước sâu đến gối và nhiều
bùn. Tôi dừng lại, suy nghĩ một hồi…Tôi bước xuống đứng dưới con lạch. Bỏ tay
vào túi quần, tôi từ từ tháo gỡ cây súng, kiểm soát khóa an toàn, cho nó rơi xuống
trong ống quần, rơi thật sâu xuống con lạch nước. Tôi nghe cây súng rơi xuống đến
mắt cá chân. Tôi dí bàn chân sâu vào trong bùn và rút lên từ từ. Cây súng,
ngang mắt cá chân tôi rơi theo đúng vào lỗ bùn sâu. Bước lên khỏi con lạch,
mang lại đôi dép, tôi đi hướng về nhà không ngoãnh mặt lại…
Có một chút gì ân hận chua
xót trong tôi. Hình như tôi vừa từ giã ai? Một người bạn? Một chiến hữu? Một khẩu
súng?..Một thoáng buâng khuâng mơ hồ, tôi vừa bước qua ngưỡng cửa cuối cùng của
cuộc đời binh nghiệp../.
Đào
Như
Oak park, Illinois, USA
4-2001
No comments:
Post a Comment