13/04/20
Lời
giới thiệu : Gần 500 độc giả đã tham gia hội thảo trực tuyến
với Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Trường Chính sách Công và Quản lý
Fulbright về chủ đề "Dịch bệnh Covid-19 : Tác động và chính sách ứng phó của
Chính phủ". Đây là hội thảo trực tuyến mở đầu cho chuỗi hội thảo
chính sách liên quan đến chủ đề Covid-19 của các giảng viên Trường Chính sách
công và Quản lý Fulbright diễn ra trong tháng 4 và tháng 5.
Với vai trò của một trường giảng dạy và nghiên cứu
chính sách công hàng đầu ở Việt Nam, các giảng viên của trường Chính sách công
và Quản lý Fulbright luôn theo dõi chặt chẽ các diễn biến của dịch Covid-19, có
các phản biện, phân tích chuyên sâu để kịp thời đưa ra các khuyến nghị chính
sách phù hợp.
Tiến sĩ Vũ Thành Tự
Anh, Giám đốc Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright
Đại dịch tác động nghiêm trọng đến kinh tế Việt
Nam
Mở đầu bài thuyết trình, Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh đưa
ra bức tranh toàn cảnh về tác động của đại dịch ở góc độ toàn cầu. Bằng các
phân tích và dẫn chứng số liệu đến thời điểm này, có thể khẳng định rằng đây là
cuộc khủng hoảng chưa từng có tiền lệ trong lịch sử thế giới cận đại.
Theo ông, mặc dù Covid là khủng hoảng toàn cầu nhưng
tác động của nó lớn đến đâu sẽ phụ thuộc vào bối cảnh và phản ứng cụ
thể của mỗi quốc gia. Trong từng quốc gia, mức độ tác động của đại
dịch và khả năng điều chỉnh, thích nghi của mỗi ngành nghề cũng khác nhau.
Với quy mô kinh tế nhỏ và có độ mở thuộc hàng cao nhất
thế giới hiện nay, không có gì ngạc nhiên khi bất kỳ một biến động nào bên
ngoài cũng có thể ảnh hưởng ngay lập tức và nghiêm trọng đến Việt Nam. Sự phụ
thuộc ngày càng lớn của Việt Nam vào đầu tư nước ngoài (khu vực FDI chiếm tới
hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, gần 50% tổng sản lượng công nghiệp) khiến nền
kinh tế càng dễ tổn thương trước các cú sốc bên ngoài.
Không những vậy, các ngành công nghiệp chế biến – chế
tạo của Việt Nam còn lệ thuộc nặng nề vào nguồn cung nguyên vật liệu bên ngoài
do sự yếu kém của các ngành công nghiệp phụ trợ. Đặc thù ở Việt Nam là để xuất
khẩu thì doanh nghiệp phải nhập khẩu rất nhiều. Bởi vậy, khi các chuỗi cung ứng
toàn cầu bị ngưng trệ vì dịch bệnh, các doanh nghiệp chật vật sản xuất cầm chừng
khi nguồn nguyên liệu đầu vào dần cạn kiệt.
Mặt khác, cơ cấu kinh tế hiện tại của Việt Nam cũng
khiến cho tác động của Covid-19 trở nên nghiêm trọng hơn. Tỷ trọng dịch vụ
trong cơ cấu kinh tế tương đối cao, trong khi đây lại là ngành chịu thiệt hại nặng
nề nhất của dịch bệnh và suy thoái kinh tế.
Tác động nghiêm trọng của Covid-19 được phản ánh rõ
nét trong số liệu thống kê quý 1. Theo đó, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt
3,82%, sụt giảm gần một nửa so với cùng kỳ năm ngoái. Cả sản xuất công nghiệp
và bán lẻ tiêu dùng đều giảm mạnh với chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ bằng 50%
so với năm 2018.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chỉ còn 0.5%, mức tăng
thấp kỉ lục, trong khi nhập khẩu âm gần 2%, cho thấy các doanh nghiệp đang cạn
kiệt nguyên liệu đầu vào để sản xuất. Dự báo tốc độ tăng trưởng xuất khẩu quý 2
còn thấp hơn nữa khi các nền kinh tế lớn, đồng thời là những thị trường xuất khẩu
lớn nhất của Việt Nam, mới thực sự ngấm đòn Covid-19 (xem biểu đồ).
Đặc biệt, các doanh nghiệp – trụ cột của nền kinh tế
chịu cú sốc mạnh. Số doanh nghiệp mới thành lập tăng 4.4% nhưng quy mô về vốn
và lao động đều giảm, trong đó lao động giảm tới gần một phần tư so với quý I
năm 2019. Trong khi đó, số lượng doanh nghiệp tạm dừng hoạt động để nghe ngóng
tình hình, hoặc chờ giải thể tăng vọt đến 26%.
Khảo sát nhanh của Ban nghiên cứu phát triển kinh tế
tư nhân đầu tháng 3 vừa qua đối với 1200 doanh nghiệp cho biết nếu như dịch kéo
dài 6 tháng thì 60% doanh nghiệp sẽ bị giảm trên 50% doanh thu, gần 30% doanh
nghiệp giảm từ 20 đến 50%. Nói cách khác, khoảng 90% doanh nghiệp được khảo sát
có mức giảm doanh thu nghiêm trọng và 74% doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản,
giải thể.
Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh cảnh báo, nếu không có sự
can thiệp hiệu quả, hiệu lực và kịp thời của Chính phủ, một số ngành kinh tế và
nhiều doanh nghiệp có thể đổ vỡ, kéo theo nhiều hệ lụy nghiêm trọng về tăng trưởng,
việc làm, cũng như nhiều hệ lụy xã hội tiêu cực khác.
Chính sách ứng phó với đại dịch
Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu cấp bách đối với từng
quốc gia cũng như toàn thế giới là phải phản ứng nhanh nhất và hiệu lực nhất với
tất cả các nguồn lực có thể có để ngăn chặn khủng hoảng y tế trở thành khủng hoảng
kinh tế và thậm chí trở thành khủng hoảng tài chính và nợ công, Tiến sĩ Vũ
Thành Tự Anh nhấn mạnh.
Tuy nhiên, khi các quốc gia thực hiện chiến lược
ngăn chặn dịch bệnh, một mặt giúp giảm tình trạng lây nhiễm, nhưng đồng thời
khiến kinh tế suy giảm trầm trọng hơn khi các hoạt động sản xuất, kinh doanh và
chuỗi cung ứng, phân phối bị ngừng trệ do các biện pháp ngăn chặn, phong tỏa.
Suy thoái kinh tế là cái giá không thể tránh khỏi khi chống dịch.
Nhấn mạnh đây là bài toán đánh đổi mà mọi quốc gia
phải chấp nhận, Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh khuyến cáo: Không nên chạy theo GDP mà
xao lãng mục tiêu chống dịch. Những dự đoán gần đây của các tổ chức quốc tế như
của ADB cho rằng Việt Nam có thể đạt tốc độ tăng trưởng 4,8% trong năm nay là
quá lạc quan, theo nhận định của ông.
"Giữ tốc độ tăng trưởng không phải là mục tiêu
chính yếu lúc này. Mục tiêu tối thượng là làm thế nào bảo toàn lực lượng để có
thể chuẩn bị nền tảng hồi phục khi bước ra khỏi khủng hoảng. Lực lượng ở đây là
sự sống của người dân, sức khỏe của doanh nghiệp, của hệ thống ngân hàng – tài
chính và niềm tin của người dân đối với Nhà nước.
Nếu vì tiếc một vài điểm % tăng trưởng GDP mà xem nhẹ
hay chấm dứt các biện pháp chống dịch quá sớm thì chúng ta có thể phải trả giá
đắt", Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh cảnh báo.
Hệ thống các chính sách can thiệp của Chính phủ để ứng
phó với tác hại của Covid-19, do vậy phải đáp ứng năm mục tiêu: (1) Hạ thấp đường
cong nhiễm dịch, (2) bảo vệ sức khỏe doanh nghiệp, (3) củng cố niềm tin xã hội,
(4) bồi đắp nền tảng phục hồi, (5) hạn chế di hại tương lai.
Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh đặc biệt lưu ý đến tầm quan
trọng của mục tiêu "bồi đắp nền tảng phục hồi" và "hạn chế di hại
tương lai". Bởi lẽ, "cuộc khủng hoảng nào rồi cũng qua đi. Vấn đề là
chúng ta sẽ ra khỏi khủng hoảng trong trạng thái như thế nào, điêu tàn hay với
tâm thế đã có một số nền tảng nhất định để phục hồi nền kinh tế, giống như đại
bàng hồi sinh từ đống tro tàn", chuyên gia đến từ Đại học Fulbright đặt vấn
đề.
Do đó, nếu các chính sách đưa ra chỉ giải quyết các
vấn đề ngay trước mắt mà thiếu tầm nhìn cho tương lai thì không những không bồi
đắp được các nền tảng để phục hồi mà thậm chí còn có thể tạo ra những hệ lụy
khó khắc phục về sau.
Chẳng hạn, nếu không cân nhắc kĩ, những chính sách
đưa ra trong thời kì khủng hoảng có thể quá đà, hoặc tạo ra những "rủi ro
đạo đức" (moral hazard) hay "lựa chọn ngược" (adverse selection)
khi một bên có nhiều lợi thế tiếp cận thông tin và chính sách hơn các nhóm còn
lại. Hậu quả là tạo ra những nhóm lợi ích hay thể chế mà sau khi khủng hoảng
qua đi sẽ cản trở năng lực phục hồi và phát triển lành mạnh của nền kinh tế, Tiến
sĩ Vũ Thành Tự Anh cảnh báo.
Kiến nghị tạm dừng xuất khẩu gạo gần đây của Bộ Công
thương được đưa ra thảo luận như một dẫn chứng về hiện tượng phản ứng chính
sách quá đà có thể gây thiệt hại lâu dài. Trong khi sản lượng lúa gạo của Việt
Nam vẫn đang ổn định, chỉ thấp hơn một chút so với cùng kỳ năm ngoái, dư sức để
vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa đảm bảo xuất khẩu gạo thì chúng ta lại bỏ lỡ
cơ hội xuất khẩu gạo với giá cao.
"Đó là chưa kể như vậy chúng ta rất bất công đối
với khu vực nông nghiệp – nông dân – nông thôn, vốn luôn là bệ đỡ của nền
kinh tế Việt Nam khi rơi vào khủng hoảng. Thực tế vừa qua, rất nhiều người mất
việc ở đô thị quay về nông thôn nương náu. Nếu không xuất khẩu được gạo, nông
thôn sẽ bị quá tải, gánh nặng chồng chất thêm lên vai người nông dân vốn đã chịu
nhiều khó khăn do thời tiết cực đoan, hạn mặn vừa qua. Nếu chúng ta không giúp
được gì cho nông dân thì cũng không nên tước đi lợi ích của họ", Tiến sĩ
Vũ Thành Tự Anh nhắc lại bài học bỏ lỡ xuất khẩu gạo giá cao từng xảy ra thời
kì khủng hoảng 2008-2009.
Can thiệp có chọn lọc bởi nguồn lực là hữu hạn
Bên cạnh việc xác lập mục tiêu rõ ràng và phù hợp,
các chính sách đưa ra phải đảm bảo ba nguyên tắc: can thiệp có mục tiêu, kịp thời
và có thời hiệu rõ ràng.
Một là, can thiệp chính sách phải có mục tiêu. Đại dịch
Covid-19 tác động đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề và nhóm đối tượng, nhưng các
nguồn lực của nhà nước, từ tài chính đến hành chính và năng lực thực thi đều có
hạn. Không một nhà nước nào có thể can thiệp đại trà mà phải xác lập ưu tiên để
can thiệp có chọn lọc. Tiến sĩ Tự Anh lấy ví dụ nhóm chính sách mục tiêu phải
hướng đến hỗ trợ người dân, người lao động và người sản xuất, hướng đến các
ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất của đại dịch, như ngành du lịch, lưu trú, ăn uống,
ngành công nghiệp chế biến – chế tạo cũng như hỗ trợ các loại hình, quy mô
doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nhiều nhất của đại dịch. Tương tự, đối với địa
phương, chính sách của chính quyền trung ương phải dành nguồn lực nhiều nhất về
ngân sách và các biện pháp hỗ trợ khác cho những nơi như Hà Nôi và Thành phố Hồ
Chí Minh đang ở tuyến đầu trong mặt trận ngăn chặn dịch Covid-19.
Hai là, khi khủng hoảng xảy ra thì tính kịp thời và
tốc độ có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh cơ chế dẫn truyền
chính sách của Việt Nam tương đối chậm và hiệu lực tương đối thấp, cản trở tính
hiệu lực và sức mạnh của các chính sách. Điều đó có nghĩa là các chính sách phải
nhanh và mạnh hơn bình thường thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu của thực tế.
Bởi vậy, trong một chừng mực nhất định, chúng ta phải
chấp nhận đánh đổi giữa tốc độ với hiệu quả và công bằng. Chẳng hạn như chúng
ta cố gắng hạn chế hiện tượng trục lợi chính sách nhưng cũng phải chấp nhận ở mức
độ nào đó câu chuyện một số nhóm được hưởng lợi từ chính sách nhiều hơn những
nhóm còn lại.
Ba là, mặc dù trong thời kì khủng hoảng, nhiều chính
sách, quyết định của nhà nước buộc phải sử dụng đến biện pháp hành chính, nhưng
vẫn phải dựa vào và tuân theo quy luật thị trường bất kỳ khi nào có thể, Tiến
sĩ Vũ Thành Tự Anh lưu ý.
Ngoài ra, các chính sách cấp cứu có tính tình thế cần
có thời hiệu rõ ràng. Ví dụ, nếu chính sách đưa ra để ứng phó với tình huống dịch
kéo dài hai quý thì phải đặt thời hiệu chính sách là hai quý. Trong trường hợp
dịch kéo dài hơn thì ra quyết định kéo dài hiệu lực của chính sách bởi "nếu
không đặt ra thời hiệu rõ ràng thì các chính sách dễ có nguy cơ đi quá đà và bị
trục lợi."
Dồn sức cho mặt trận y tế và trợ cấp cho các
nhóm thiệt thòi
Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh phân tích kỹ các chính sách
tài khóa, tiền tệ và đầu tư công – những công cụ chính sách chủ công để chống
suy thoái.
Về chính sách tài khóa, ông cho rằng, chi tiêu công
quan trọng nhất hiện nay là cho y tế và phòng dịch. Nếu cú sốc y tế không được
chặn đứng, chắc chắn sẽ dẫn tới cú sốc kinh tế. Nếu như chúng ta chấp nhận suy
giảm kinh tế tạm thời thì còn có sức để chống dịch lâu dài và có thể hồi phục
kinh tế sau này. Còn nếu mặt trận y tế thất bại thì chắc chắn sẽ dẫn tới thất bại
kinh tế, tài chính và thậm chí các khủng hoảng khác.
Mặt khác, cần có chính sách miễn, giảm, hoãn, giãn
thuế (VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp CIT) cho các doanh nghiệp chịu tác động
nghiệm trọng của dịch Covid 19. Miễn, giảm, hoãn, giãn các khoản phí cho doanh
nghiệp và người lao động như bảo hiểm xã hội, y tế, thất nghiệp, công đoàn…
"Cần tăng chi tiêu cho các chính sách an sinh,
trợ cấp xã hội và các dịch vụ xã hội cơ bản. Nếu Chính phủ không hỗ trợ cho lực
lượng lớn những người nghèo, cận nghèo thì họ sẽ trở nên bần cùng hóa, dẫn đến
những rủi ro bất ổn về mặt xã hội", vị chuyên gia này khuyến cáo.
Trong nhiều hình thức trợ cấp xã hội, Chính phủ có
thể cân nhắc hỗ trợ người dân bằng cách khấu trừ trực tiếp trên hóa đơn điện,
nước – các tiện ích cơ bản, chẳng hạn một khoản cố định 100 nghìn đồng/tháng/hóa
đơn tiền điện của một hộ gia đình. So với trợ cấp theo tỷ lệ phần trăm (ví dụ
10% như đề xuất hiện nay), trợ cấp một khoản cố định hàng tháng sẽ hỗ trợ được
nhiều nhất cho người nghèo mà không làm tăng gánh nặng ngân sách.
Về chính sách tiền tệ, theo quan điểm của Tiến sĩ Vũ
Thành Tự Anh, quan trọng nhất là đảm bảo tính thanh khoản cho hệ thống ngân
hàng thương mại, qua đó hỗ trợ thanh khoản cho doanh nghiệp chịu tác động bởi dịch.
"Rất nhiều khuyến nghị nói chúng ta phải giảm
lãi suất. Đề xuất này không sai. Vấn đề là chúng ta đã nói đến chuyện giảm lãi
suất cả mấy năm nay mà không làm được. Bây giờ muốn giảm lãi suất, Ngân hàng
Nhà nước buộc phải dùng biện pháp hành chính và không phải là giải pháp bền vững.
Hơn nữa, nếu giảm lãi suất mà doanh nghiệp không tiếp cận được tín dụng thì thà
để họ tiếp cận được tín dụng với lãi suất cao hơn. Bởi vậy, ưu tiên hàng đầu là
hỗ trợ thanh khoản chứ không phải giảm mặt bằng lãi suất" – ông nhấn mạnh.
Ngoài ra, có thể cho phép cơ cấu lại các khoản nợ của
doanh nghiệp và vay tiêu dùng, như giãn tiến độ, hoãn trả nợ, không đưa vào
danh sách nợ xấu vì đây là rủi ro từ trên trời rơi xuống, không phải là lỗi của
doanh nghiệp và người dân.
Về tỉ giá, Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh cho rằng Việt Nam
nên mạnh dạn và linh hoạt trong điều chỉnh tỉ giá để giữ lợi thế xuất khẩu vì tất
cả các quốc gia khác đều đã điều chỉnh tỉ giá giảm sâu.
Đầu tư nghiên cứu và chế tạo vắc-xin nhằm làm
chủ "đường cong miễn dịch"
Về chính sách đầu tư công, Nhà nước cần đầu tư vào
việc nghiên cứu, chế tạo và sản xuất vắc – xin chống Covid-19 thay vì trông chờ
vào thị trường và lòng tốt của người khác. "Nếu chúng ta làm được điều này
thì chúng ta sẽ làm chủ đường cong miễn dịch chứ không chỉ là đường cong nhiễm
dịch".
Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh cũng lưu ý các chính sách đầu
tư công cần nhắm vào hai mục tiêu : vừa kích thích kinh tế, vừa giúp bồi dưỡng
năng lực khi hồi phục. Theo đó, các ngành công nghệ thông tin và truyền thông
(5G), năng lượng tái tạo, các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng mà hiên nay do thiếu
vốn nên ngưng trệ, chậm tiến độ, các nền tảng giáo dục trực tuyến, khám bệnh từ
xa, thanh toán không dùng tiền mặt, thương mại điện tử…nên được xem là các ưu
tiên đầu tư.
Tuy nhiên, mọi chính sách vĩ mô, dù tốt đến đâu
nhưng nếu không gây dựng được niềm tin của người dân thì chính sách cũng không
có tác dụng. Đây vừa là thách thức nhưng cũng là cơ hội lớn cho Chính phủ.
"Một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ
là phải xây dựng được niềm tin rằng Chính phủ đã hành động kịp thời, hành
động hiệu quả vì lợi ích của người dân và doanh nghiệp. Khi đó, Chính phủ sẽ ra
khỏi cuộc khủng hoảng này với một trạng thái tự tin và những chính sách sau này
của Chính phủ sẽ có hiệu lực hơn rất nhiều", giám đốc Trường Chính sách
công và Quản lý Fulbright nhấn mạnh.
Vũ
Thành Tự An
Nguồn : Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright,
13/04/202
------------------------------------------
XEM THÊM
TS Đinh Trường Hinh
Gửi
bài cho BBC News Tiếng Việt từ Washington D.C
11 tháng 4 2020
No comments:
Post a Comment