Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ
13/11/2019
*
Lựa chọn hoàn hảo
Để thực hiện thành công sứ mệnh giúp Mỹ rút ra khỏi
cuộc chiến mà vẫn bảo đảm cho chính quyền Sài Gòn khả năng tự mình đương đầu với
địch thủ Cộng sản, Đại sứ Bunker buộc phải tìm ra một nhân vật người Việt không
chỉ là dân sự mà còn phải đáp ứng chí ít ba tiêu chí: có năng lực chống Cộng,
có uy tín chính trị và nhất là, có chiến lược xây dựng một Việt Nam Cộng hòa có
khả năng “độc lập tác chiến”. Rất nhanh chóng, ông đã tìm thấy nhân vật đó ở
Giáo sư Nguyễn Văn Bông.
Nguyễn Văn Bông sinh năm 1929, trong một gia đình
nghèo, cha là thợ bạc, mẹ là thợ may. Vì vậy, ông phải làm việc từ lúc mới 12
tuổi để kiếm thêm tiền đi học. Năm 1949, ông mua một vé tàu hạng ba đi Pháp để
du học. Tại Paris, ông làm bồi bàn tại tiệm ăn La Table du Madarin và kết thân
với một sinh viên Việt Nam khác cũng đang làm bồi bàn tại đây là Nguyễn Ngọc
Huy, người sẽ sát cánh cùng ông trong các hoạt động chính trị sau này. Sau khi
đạt học vị Tiến sĩ Luật và Tiến sĩ Chính trị học vào năm 1960 và Bằng Giảng dạy
đại học (Agrégation) (2) về công pháp vào năm 1962, ông về nước vào tháng
1/1963 theo lời mời của chính quyền Ngô Đình Diệm để giảng dạy tại Phân Khoa Luật
- Viện Ðại Học Sài Gòn. Trước khi về nước, ông đã hứa hôn với một nữ sinh viên
tên là Lê Thị Thu Vân, người mà ông sẽ cưới làm vợ vào năm 1964. Sau cuộc đảo
chính ngày 1/11/1963 lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, chính quyền mới bổ nhiệm
ông làm Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh có chức năng đào tạo các công
chức trung, cao cấp.
Về tiêu chí thứ nhất, Giáo sư Bông là một người chống
Cộng có bài bản.
Thời điểm ông về nước, chính quyền Ngô Đình Diệm
đang đàn áp dữ dội phe đối lập với việc truy cứu hình sự nhiều người trong số
18 chính khách chống Cộng thuộc Khối Tự do Tiến bộ (gọi tắt là Cấp Tiến), còn gọi
là Nhóm Caravelle, Nguyễn Tường Tam, tức nhà văn Nhất Linh… do ủng hộ cuộc đảo
chính ngày 11.11.1960 của nhóm sĩ quan Nguyễn Chánh Thi – Vương Văn Đông. Ngày
7/7/1963, trước khi quyên sinh để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ông ra
xét xử, Nguyễn Tường Tam viết trong di chúc: “Sự bắt bớ và xử tội những phần tử
quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản".
Đồng quan điểm chống độc tài gắn với chống Cộng nêu
trên của vị cựu thủ lĩnh Tự Lực Văn Đoàn, Giáo sư Bông cho rằng sự tồn tại của
đối lập chính trị mới giúp chống được Cộng sản. Trong bài thuyết giảng “Vấn đề
đối lập trong chánh thể dân chủ” nhân lễ khai giảng 1/8 cùng năm tại Trường Luật,
ông nhấn mạnh: “… vì thiếu đối lập mà cộng sản và những phần tử dân chủ nắm mất
chánh nghĩa đối lập và lợi dụng khai thác những bất mãn, than phiền của quần
chúng. Vậy để tránh mọi sự ngộ nhận giữa chánh quyền và nhân dân, để cho trạng
thái tinh thần khủng hoảng của dư luận được thể hiện một cách ôn hòa, để cho những
phần tử phiến loạn hết cơ hội lợi dụng tuyên truyền và khai thác, vấn đề đối lập
tự do và xây dựng cần phải được đặt ra”. Sau bài thuyết giảng này, theo bà
Jackie Bông, Giáo sư Bông đã phải liên tục thay đổi chỗ ngủ trong một thời gian
vì sợ mật vụ của ông Ngô Đình Nhu, Cố vấn của Tổng thống Diệm, hãm hại.
Cũng bởi tầm quan trọng có tính sinh tử của đối lập
chính trị trong cuộc chiến chống Cộng sản mà Giáo sư Bông đã dành hẳn một
chương, Chương IV, Thiên thứ ba, cho vấn đề này trong giáo trình “Luật Hiến
pháp và chính trị học”. Tuy nhiên theo ông, để có đối lập chính trị thì phải có
hệ thống đa đảng vì hệ thống độc đảng triệt tiêu nó. Ở phần “Chính đảng” của
giáo trình này, ông viết: “Với một chính đảng duy nhất – dù trên Hiến pháp phân
quyền được ấn định – nguyên tắc này chỉ là hư ảo vì Hành pháp và Lập pháp chỉ
là thừa hành mệnh lệnh của trung ương đảng bộ. Chính phủ gồm toàn nhân viên cao
cấp của đảng, còn Quốc hội là cán bộ của đảng chỉ biết hoan hô. Đại hội của đảng
có một tầm quan trọng gấp trăm lần phiên họp của Quốc hội. Đối lập – lẽ dĩ
nhiên – không thành vấn đề. Vì chỉ có một chính đảng được phép công khai hoạt động.
Không những không có chính đảng đối lập mà cũng không có đối lập trong chính đảng
duy nhất ấy”. Tóm lại, Giáo sư Bông cổ súy hệ thống đa đảng cũng là nhằm chống
Cộng sản.
GS Nguyễn Văn Bông (phía trước) GS Nguyễn Văn
Tương,(bên phải) và GS Tạ Văn Tài đên trao bằng Tiến sĩ cho một sinh viên Trường
Luật.
Đối tượng tác động của ông không chỉ là sinh viên mà
còn, và nhất là, bản thân thể chế chính trị. Đầu tháng 3 năm 1967, ông đã cho
xuất bản thành sách giáo trình nói trên với cùng tiêu đề nhằm ảnh hưởng trực tiếp
đến việc soạn thảo Hiến pháp cho Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa. Kết quả là Hiến pháp
được ban hành sau đó 1 tháng đã quy định “Chính Đảng và Đối Lập” tại Chương
VII.
Vẫn theo Giáo sư Bông, để chống Cộng thành công,
chính quyền phải lôi kéo được dân đi với chính quyền. Trong bài “Vai trò chánh
đảng và cuộc sinh hoạt chính trị tại Việt Nam Cộng hòa”, ông viết: “Đa số quần
chúng ở với ta nhưng vẫn chưa theo ta. Trong lúc đó, ở vùng Cộng sản kiểm soát
sự tham gia của dân chúng vào guồng máy đấu tranh là một điều bắt buộc, dưới
hình thức này hay hình thức khác, với mọi phương tiện và thủ đoạn. Cộng sản huy
động mọi tầng lớp nhân dân cùng chiến đấu với họ. Đối với Cộng sản bất cứ ai
cũng không thể đứng ngoài cuộc tranh chấp. Và giải pháp của vấn đề không phải
chỉ có phát gạo, phát đường, mà phải còn đặt nặng vấn đề chính trị, củng cố lập
trường, cùng ý thức hệ…Xây dựng nông thôn, tranh thủ nhơn tâm, trước hết là xậy
dựng tư tưởng chính trị, tranh thủ quần chúng chấp nhận xã hội ta, chế độ ta”.
Và để lôi kéo được dân, Giáo sư Bông chủ trương “chính trị hóa sinh hoạt” của bộ
máy chính quyền, biến từng viên chức chính quyền thành “cán bộ chính trị”.
Cũng cần nói thêm rằng phương pháp “dân vận” này của
Giáo sư Bông hoàn toàn khớp với mục tiêu “bình định nông thôn” (pacification) bằng
phương thức tình báo của người đứng đầu CORDS. Thực vậy, Komer tổ chức các
“Đoàn cán bộ xây dựng nông thôn" được trang bị vũ khí nhẹ, còn gọi là “Đội
quân áo đen” và thực hiện "ba cùng" (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với
dân, nhất là với những nhà có người tập kết ra Bắc hoặc thoát ly theo Cộng sản,
để phát hiện và tiêu diệt “Cộng sản nằm vùng”. Cũng như vậy, phương pháp này của
Giáo sư Bông hoàn toàn phù hợp với “chiến tranh toàn diện” gồm cả hành quân,
bình định và gia tăng năng lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa của Đại tướng
Abrams.
Về tiêu chí thứ hai, Giáo sư Bông có một loạt lợi thế
để tập hợp lực lượng và tạo đoàn kết cả trong và ngoài chính quyền Việt Nam Cộng
hòa.
Là Giám đốc Học viện quốc gia hành chính, chắc chắn
ông có được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các học trò của ông đang và sẽ nắm giữ những
chức vụ chủ chốt trong bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương.
Là một trí thức nổi tiếng chống độc tài và cổ súy
cho đảng chính trị và hệ thống đa đảng, điều được thể hiện rõ qua các tác phẩm
đã dẫn ở trên của ông, Giáo sư Bông dễ có được sự hợp tác của các đảng phái hơn
bất cứ ai khác.
Sự liêm khiết của Giáo sư Bông cũng là một thế mạnh
nữa của ông trong bối cảnh chính quyền Sài gòn bị ngay người Mỹ nhận định tham
nhũng trầm trọng (3). Ông Hoàng Đức Nhã cũng khẳng định: “Không có gì phải nghi
vấn về sự trong sạch của Giáo sư Bông”. Phẩm chất này của ông hẳn sẽ giúp xây dựng
được một chính quyền “sạch” hơn để tranh thủ dân chúng một khi ông tham gia
Chính phủ.
Tóm lại, uy tín của Giáo sư Bông chẳng những có thể
mang lại cho Việt Nam Cộng hòa tính chính danh trong mắt của đa số người dân miền
Nam mà quan trọng hơn, có thể giúp chính thể này chiến thắng trong viễn cảnh tổng
tuyển cử để định ra chính quyền tương lai cho Nam Việt Nam mà Hội nghị Paris
đang bàn tới.
Về tiêu chí thứ ba, Giáo sư Bông đã tìm ra phương thức
khả dĩ giúp Việt Nam Cộng hòa trụ vững trong cuộc chiến một khi Mỹ rút quân. Đó
chính là công tác chính trị.
Vẫn trong bài “Vai trò chánh đảng và cuộc sinh hoạt
chính trị tại Việt Nam Cộng hòa”, ông viết: ”Chính trị hóa sinh hoạt còn có
nghĩa nung đúc tinh thần chiến đấu…Chỉ có tinh thần mới có thể giúp ta tự lực,
tránh cho ta thái độ ỷ lại vào người. Nếu ngoại viện là điều cần thiết trong
giai đoạn hiên tại thì chính vì ngoại viện ấy mà chúng ta càng phải mau mau
phát động ý chí tự lực, tự cường hầu có thể chịu đựng khi không còn ngoại viện”.
Cũng như vậy, trong bài “Mặt trận quân sự” viết
trong bối cảnh Hội nghị Paris về Việt Nam đã được tiến hành, ông chủ trương
“phát triển triệt để chiến tranh chính trị trong quân đội” với giải thích: ”Thực
vậy, sự rút quân của đồng minh sẽ tạo một khủng hoảng tâm lý quan trọng cho
quân đội Việt Nam. Ngành tâm lý chiến phải đánh tan mặc cảm bị bỏ rơi, thái độ ỷ
lại, tinh thần chủ bại, tâm lý ngạo khó, ngán địch, đồng thời phát huy mạnh mẽ
ý chí tự lực, tự cường, tự túc, nâng cao tinh thần tự vệ và đoàn kết với nhơn
dân để tiêu diệt địch trong nhơn dân”.
Nói cho đúng, Bunker có được Giáo sư Bông như một lựa
chọn hoàn hảo cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” chính là nhờ người tiền
nhiệm: Henry Cabot Lodge. Thực vậy, vị cựu Thượng nghị sĩ bang Massachusetts
này đã phát hiện ở Giáo sư Bông một chính khách có bản lĩnh, và hơn thế nữa, một
thủ lĩnh đối lập tiềm tàng qua bài thuyết giảng “Vấn đề đối lập trong chánh thể
dân chủ” của ông. Bảo trợ và gây dựng vị thế cho vị giáo sư Trường Luật này vì
vậy là chuyện không phải bàn cãi đối với Cabot Lodge, vốn được Tổng thống
Kennedy cử sang Nam Việt Nam để chấm dứt chế độ Ngô Đình Diệm đang gây phương hại
nghiêm trọng cho cuộc chiến chống Cộng sản của Mỹ tại đây (4). Điều này giải
thích vì sao Hội đồng Quân nhân Cách mạng đã bổ nhiệm Giáo sư Bông làm người đứng
đầu Học viện Quốc gia Hành chánh ngay sau cuộc đảo chính sát hại ông Diệm cùng
bào đệ là ông Nhu mà Cabot Lodge là người trực tiếp đứng đằng sau.
Sự bảo trợ chính trị này không hề kín đáo, ngược lại
là khác. Bà Jackie Bông kể: “Đại sứ Cabot Lodge luôn mời anh Bông và tôi dự các
buổi tiếp tân của Đại sứ quán, và nhất là dành cho tôi ghế danh dự, bên tay mặt
ông, trong khi anh Bông tuyệt nhiên không phải là quan chức cao cấp. Ông ấy còn
đến đám tang Khánh em trai tôi, chỉ là một trung úy tử trận”.
(Còn tiếp)
---------------------------------
Chú
thích
(2) "Agrégation" là bằng cần có để giảng dạy
Đại học ở Pháp, người có bằng này được gọi là “agrégé”. Ngược lại, “Capes”
(Certificat d’Aptitude au Professorat de l’Enseignement du Second degré) là bằng
cần có để giảng dạy trung học. Trong hệ thống giáo dục miền Nam Việt Nam trước
1975, “Agrégation” được dịch là “Thạc sĩ”. Trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện
nay, “Thạc sĩ” là học vị trên Cử nhân và dưới Tiến sĩ, tương đương “Maitrise”
(Pháp) hay Master (Anh, Mỹ). Để tránh nhầm lẫn, theo tác giả bài viết này,
“Agrégation” cần được dịch là “Bằng Giảng dạy đại học”. Cũng như vậy, “Capes” cần
được dịch là “Bằng Giảng dạy trung học”.
(3) Theo nhà báo Mỹ William J. Lederer, kẻ thù tồi tệ
nhất của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam là nạn tham nhũng của Việt Nam Cộng hòa;
hàng tỷ USD viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ bị quan chức tham ô rồi bán ra
chợ đen.
(4) Tổng thống Ngô Đình Diệm không chỉ cai trị theo
lối gia đình trị, đàn áp Phật giáo gây phẫn nộ lớn cả trong chính quyền và quân
đội lẫn ngoài xã hội mà còn muốn độc lập với Mỹ và thỏa hiệp với Cộng sản. Khi
Đại sứ Frederick Nolting đề nghị để cho Hoa Kỳ chia sẻ những quyết định về
Chính trị, Quân sự và Kinh tế, ông Diệm trả lời rằng "chúng tôi không muốn
trở thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ". Theo ông Cao Xuân Vỹ, phụ tá của Cố vấn
Ngô Đình Nhu, vào tháng 2 năm 1963, ông Nhu mượn cớ đi săn cọp ở khu rừng Tánh
Linh, tỉnh Bình Tuy, để bí mật gặp Phạm Hùng, ủy viên Bộ chính trị Đảng Lao Động
Việt Nam. Thông tin này là có cơ sở vì Phạm Hùng giữ chức Trưởng Ban Thống nhất
thuộc Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (từ 1958 đến 1966), cơ quan này có chức
năng nghiên cứu và triển khai thống nhất hai miền Bắc-Nam Việt Nam bằng phương
pháp hòa bình
*
Tác
giả là một luật gia, học giả và nhà bất đồng chính kiến, cựu tù nhân chính trị Việt
Nam.
No comments:
Post a Comment