Hoàng
Thủy Ngữ dịch
05/09/2019
Tại sao cuộc khủng hoảng ở
Hồng Kông và mối bất hòa giữa Nam Hàn và Nhật Bản chỉ là bước
khởi đầu của thời kỳ chuyển đổi rộng lớn hơn ở Châu Á
Năm 1942, khi thủy quân lục
chiến Hoa Kỳ đang tham gia trận chiến khốc liệt không thấy hồi kết
trên đảo với người Nhật, Nicholas J.Spykman, một chiến lược gia người
Mỹ gốc Hòa Lan, giảng dạy tại đại học Yale, đã thấy trước một liên
minh thời hậu chiến giữa Mỹ và Nhật chống lại Trung Quốc, sau đó là
sự chỉ trích về các đồng minh trong thời chiến của Hoa Kỳ.
Ông cho rằng, Nhật Bản sẽ
vừa trung thành vừa hữu ích bởi lẽ họ sẽ cần Hoa Kỳ bảo vệ các
tuyến đường biển để có thể nhập khẩu thực phẩm và dầu hỏa, đồng
thời số lượng lớn những người tiêu dùng của quốc gia này sẽ đặt
nền tảng cho mối quan hệ thương mại vững chắc. Mặt khác, ông cho rằng
Trung Quốc cuối cùng sẽ nổi lên từ cuộc chiến như một cường quốc
lục địa hùng mạnh và nguy hiểm mà Hoa Kỳ sẽ cần phải tái cân bằng
chống lại. Spykman cũng chỉ ra Nhật Bản sẽ có vai trò như Vương Quốc
Anh, đối với Châu Á: một đồng minh lớn, ngoài khơi của Hoa Kỳ.
Spykman chết vì bệnh ung thư
vào năm sau, không bao giờ thấy được dự đoán của mình được hình
thành. Trong thực tế, đó là tầm nhìn vừa định rõ vừa ổn định Châu
Á và đem lại hòa bình cùng sự thịnh vượng về kinh tế cho khu vực
này trong gần ¾ thế kỷ. Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã mở đường
cho Trung Quốc năm 1972, tạo ra một nếp nhăn trong tầm nhìn đó, bằng
cách đưa Hoa Kỳ đến gần Trung Quốc hơn để cân bằng chống lại Liên Xô.
Nhưng liên minh Mỹ – Nhật vẫn là nền tảng vững chắc cho một Châu Á
ổn định. Nếu không có sự hợp tác của Mỹ với Nhật Bản, Nixon đã
không thể thực hiện cú đảo chính ngoại giao tại Trung Quốc.
Tầm nhìn của Spykman – rất
rõ ràng vào thời điểm ông phát biểu quan điểm của mình – dường như
phù hợp hơn bao giờ hết với bối cảnh thương mại đang diễn ra hiện nay
giữa Washington và Bắc Kinh, mặc dù bây giờ ít người nhớ đến tên ông.
Tuy nhiên, trong thực tế, trật tự Châu Á của Spykman hiện đang bắt đầu
sụp đổ bởi vì Châu Á, trong thập niên vừa qua, đã có những chuyển
biến đáng chú ý. Những thay đổi dần gia tăng và lan rộng trong một
số quốc gia, vì vậy ít người nhận ra chúng ta đang bước vào một kỷ
nguyên mới, trong đó đặc biệt sẽ có một Trung Quốc quyết đoán hơn
nhưng cũng hỗn loạn hơn trong nội bộ, cùng với hệ thống liên minh của
Hoa Kỳ bị rạn vỡ và hải quân Hoa Kỳ không còn nhiều ưu thế như trong
những thập niên trước đây. Cuộc khủng hoảng ở HongKong và mối bất
hòa trong quan hệ giữa Hàn Quốc và Nhật Bản chỉ là phần mở đầu cho
những năm sắp tới. An ninh Châu Á không còn được thừa nhận.
Trước hết, Trung Quốc không
còn là Trung Quốc, ít nhất theo cách nó được biết đến. Quốc gia này
có nền kinh tế tăng trưởng hàng năm ở mức hai con số, được kiểm soát
theo các kỳ hạn nghiêm ngặt, do một nhóm các nhà kỹ trị ẩn danh,
thận trọng, có trình độ đại học quản lý bị thay bằng một cá nhân
chuyên quyền cai trị cứng rắn, giám sát một nền kinh tế tăng trưởng
chỉ còn 6%. Khi nền kinh tế Trung Quốc chậm lại, nó trở thành một
hệ thống hoàn chỉnh hơn với một lực lượng lao động có tay nghề cao.
Những tầng lớp trung lưu mới có xu hướng dân tộc chủ nghĩa và khó
thỏa mãn buộc chính phủ phải định mức công việc cao hơn.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình đang chuẩn bị cho tầng lớp trung lưu này vai trò quyền lực thế
giới với mệnh lệnh mở rộng hải cảng và các tuyến đường thương mại
xuyên Âu Á, bằng cách khơi dậy chủ nghĩa dân tộc và cải cách kinh
tế. Ông ta cũng áp dụng mảng công nghệ hiếm có – gồm cả máy quét
nhận diện khuôn mặt – để theo dõi hành vi của mọi người. Tập biết
mình phải làm khác với tổng bí thư Liên Xô Mikhail Gorbachev – xiết
chặt kiểm soát chính trị thay vì nới lỏng – để cải cách nền kinh
tế định hướng xuất khẩu được vượt mức trong khi vẫn bảo toàn chính
trị trong nước.
Trung Quốc mới của Tập đang
khai triển mở rộng nhanh chóng lực lượng hải quân trên khắp các tuyến
đường biển Châu Á. Việc làm này sẽ biến đổi trật tự an ninh hàng
hải đơn cực của Hoa Kỳ trong 75 năm qua thành đa cực và do đó kém ổn
định hơn. Một trật tự hải quân đơn cực là cái chìa khóa mặc nhiên
trong tầm nhìn của Spykman về một liên minh Mỹ – Nhật. Nhưng sự chuyển
đổi thành đa cực rõ ràng đang trên đường thành hình.
Điều buồn cười là nhiều
quan sát viên có khuynh hướng xem sự gây hấn của hải quân Trung Quốc ở
phía Nam Biển Trung Hoa và Biển Hoa Đông là những phát triển riêng lẻ
và được báo cáo riêng, nhưng trong thực tế, chúng có ảnh hưởng đến
sự kiểm soát của Hoa Kỳ ở khắp vùng biển Tây Thái Bình Dương. Các
dự án phát triển hải cảng mới nhất của Trung Quốc tại Darwin, ở
miền Bắc nước Úc và gần Sihanoukville ở Campuchia chứng minh cách
Trung Quốc đang lấp đầy không gian hàng hải tại giao lộ giữa Biển Đông
và Ấn Độ Dương như thế nào, nơi đã có mạng lưới hải cảng từ thập
niên trước.
Nhưng chỉ vài năm gần đây,
tân đế chế hàng hải Trung Quốc đã đẩy mạnh sự hiện diện của mình.
Ấn Thái Bình Dương không còn là cái hồ của hải quân Hoa Kỳ. Trung
Quốc tăng cường hoạt động hải quân cả ở vùng biển Nam và Đông Trung
Hoa cũng để phục vụ mục đích lớn hơn: chúng cho phép Trung Quốc đe
dọa thêm Đài Loan, nơi chia cách cả hai vùng nước. Trước khi Nixon đến
Trung Quốc, Đài Loan đã là một điểm nóng.
Nếu Trung Quốc không tham
chiến ở bán đảo Triều Tiên năm 1950, có lẽ nhà lãnh đạo Trung Quốc
Mao Trạch Đông đã xâm chiếm Đài Loan. Nhưng một khi Nixon và ngoại
trưởng Mỹ Henry Kissinger đã cùng với Mao và thủ tướng Trung Quốc Chu
Ân Lai thỏa thuận hủy bỏ tính pháp lý độc lập của Đài Loan trong
lúc không có gì đe dọa nó, Đài Loan trở nên căng thẳng hơn. Giờ đây
nó trở lại như một điểm nóng với chuyện Trung Quốc diễn tập quân sự
ngoài khơi, việc Bắc Kinh dần dần hoàn thiện khả năng phóng tên lửa
và áp dụng chiến tranh mạng chống lại hòn đảo, đồng thời đòi hỏi
chính quyền Trump hủy bán số vũ khí trị giá 2,2 tỷ USD cho Đài Loan.
Mọi sự kiện này xảy ra, ngày càng trầm trọng hơn, do việc khích
động chính sách dân tộc cực đoan của cả Tập lẫn tổng thống Hoa Kỳ
Donald Trump.
Tất nhiên, không có nơi nào
ở Châu Á tham gia ván bài nhiều như bán đảo Triều Tiên. Hậu quả
ngoài ý muốn do Trump thiếu chuẩn bị khi bắt đầu đàm phán với Kim
Jong Un là nhân vật này và Nam Hàn đã mở ra cuộc đối thoại của riêng
họ. Cuộc đối thoại này có luận lý và quỹ đạo riêng của nó, và
theo thời gian, sẽ dẫn đến một hiệp ước hòa bình Bình Nhưỡng –
Hán Thành và có thể hơn 23 000 quân nhân Mỹ sẽ phải rời khỏi Nam
Hàn.
Đừng nói chuyện này không
thể xảy ra. Kịch bản các quốc gia bị chia cắt trong thế kỷ 20 cuối
cùng cũng đã thống nhất: Bắc và Nam Việt Nam, Tây và Đông Đức, Bắc
và Nam Yemen. Nếu điều này xảy ra ở bán đảo Triều Tiên, như tôi đã
từng viết ở nơi khác, người thua cuộc chính sẽ là Nhật Bản. Nhật
Bản đã đòi hỏi một bán đảo Triều Tiên bị chia cắt vì an ninh của
chính họ bởi lẽ một Đại Hàn thống nhất – chính xác vì sự tàn bạo
trong chính sách thực dân của Tokyo từ năm 1910 – 1945, chưa muốn nói
đến di sản của thế chiến thứ Hai – tự nhiên sẽ chống lại Nhật.
Những căng thẳng thương mại
leo thang đầy kịch tính gần đây giữa Nam Hàn và Nhật Bản tự nó trở
nên trầm trọng hơn vì chính sách lao động cưỡng bức và nô lệ tình
dục trong thời chiến của Nhật. Đây chỉ là mùi vị ban đầu của những
căng thẳng chính trị có thể, vào một ngày nào đó, sẽ bùng nổ giữa
một Đại Hàn thống nhất và Nhật Bản. Thật vậy, bằng cách chọn
chính sách song phương từ số không với mỗi quốc gia châu Á thay vì xây
dựng tầm nhìn toàn khu vực, Trump đã mở cái hộp Pandora (1), tạo ra
những vấn đề khiến các đồng minh của Mỹ có thể chống lại nhau – và
Trung Quốc là kẻ chiến thắng.
Nhật Bản giờ phải chuẩn
bị một tương lai với sự hiện diện ngày càng lớn mạnh của lực lượng
hải và không quân Trung Quốc, với khả năng Hoa Kỳ sẽ đóng quân ít hơn
ở Đông Bắc Á và khả năng Trung Quốc sẽ giao chiến đánh bại Nhật ở
biển Hoa Đông trong thập niên tới. Trung Quốc hiện tạm hoãn binh chờ
thời ở đó, không muốn mạo hiểm lao vào cuộc xung đột kéo dài với
lực lượng hải quân cực kỳ tinh nhuệ của Nhật Bản.
Mọi diễn biến này xảy ra
trong bối cảnh chính sách an ninh và đối ngoại của Hoa Kỳ có vẻ ít
đáng tin cậy hơn so với bất cứ thời gian nào kể từ thế chiến thứ
Hai. Nó xói mòn tính nhất quán do việc đưa ra quyết định đe dọa uy
tín về quyền lực của Mỹ ở Châu Á và các nơi khác. Bằng cách xoay
lưng lại với việc xây dựng liên minh, lớn tiếng báo hiệu ngay từ sớm
trong nhiệm kỳ tổng thống của mình với quyết định bãi bỏ Hiệp Định
Đối Tác Thái Bình Dương, Trump đã làm suy yếu khung quản lý cần
thiết để ngăn chặn việc leo thang quân sự vào thời điểm có nhiều
tương tác phức tạp giữa các hệ thống vũ khí tối tân khắp Châu Á.
Sự tin tưởng lẫn nhau và những hiểu biết ngấm ngầm đã liên kết Hoa
Kỳ với các đồng minh ở Châu Á đang bị suy giảm trầm trọng. Sự tín
nhiệm là điều quan trọng nhất mà một cường quốc hay một cá nhân
phải có.
New Delhi, liên minh mới của
Washington và mối quan hệ trong mạng lưới quyền lực Châu Á mới nổi
giữa Ấn Độ, Úc, Nhật Bản và Việt Nam chẳng giúp được nhiều, không
như nhiều người nghĩ . Mối quan hệ Mỹ Ấn đã được cải thiện đáng kể
trong 15 năm qua dưới một bối cảnh cụ thể: quan hệ Mỹ Trung có thể
dự đoán và đối phó được mặc dù là một trong các đối thủ.
Nhưng sự bất ổn do thuế
quan khiến quan hệ Mỹ Trung khó dự đoán và đối phó hơn. Trong trường
hợp này, về mặt địa lý, Ấn Độ quá gần Trung Quốc nên cảm thấy bất
an, dần có thể tái phát hiện sự mất cân bằng trong chiến lược của
mình giữa hai cường quốc. Về phần mình, New Delhi cũng không mất
nhiều nỗ lực để giải quyết vì trên thực tế, họ chưa từng tuyên bố
chính thức điều gì cả. Còn đối với mạng lưới quyền lực Châu Á mới
nổi, đó là thứ hào nhoáng bên ngoài hơn là thực chất: không có sự
lãnh đạo cương quyết và có thể dự đoán được của Hoa Kỳ, nó chẳng
cấu thành cái gì nhiều.
Những thay đổi văn hóa và
kinh tế âm ỉ kéo dài trong xã hội Mỹ đã tạo ra tổng thống Trump. Và
là một cường quốc, tình hình trong nội bộ nước Mỹ – cũng như trong
nội bộ Trung Quốc – cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến toàn thế giới. Điều
này có nghĩa chỉ có Trung Quốc mới có thể đánh bại Trung Quốc. Nếu
Tập, với chính sách đàn áp trong nước được hỗ trợ bằng công nghệ,
thất bại không thể ngăn chặn một tầng lớp trung lưu thỉnh thoảng nổi
dậy trong thập niên sắp tới hay lâu hơn, thì phần lớn những gì Trung
Quốc đã khởi xướng ở nước ngoài có thể hình dung ra và đặt trong
câu hỏi.
Nhưng đó vẫn là kịch bản
không thể xảy ra. Nhiều khả năng là Trung Quốc sẽ tiếp tục mở rộng
phạm vi hoạt động quân sự cùng thị trường nội địa xuyên khắp Ấn Độ
Thái Bình Dương và Âu Á, trong lúc cam kết tình cảm của người Mỹ
với các đồng minh sau thế chiến thứ Hai cứ phai nhạt dần. Ở Châu
Á tình trạng đó chuyển thành Phần Lan hóa (2) – một khuynh hướng âm
thầm ngả về cường quốc gần nhất. Từ phía Nam Nhật Bản đến Úc,
các đồng minh Châu Á của Mỹ có thể từ từ di chuyển vào quỹ đạo
của Trung Quốc, theo cách Phần Lan phát triển gần gũi với Liên Xô
trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Các đồng minh của Hoa Kỳ không còn
chọn lựa nào khác ngoài việc sống chung hòa bình với một Trung Quốc
do nguyên nhân địa lý, nhân khẩu học và nguyên tắc tổ chức kinh tế
của Tây Thái Bình Dương.
Thế giới của Spykman sẽ
kết thúc trong trường hợp đó.
---------------------
Phụ chú của người dịch:
No comments:
Post a Comment