Ngọc Tú (gt)
Thứ sáu, 27 Tháng 9 2019 09:31
Trong
hai thập kỷ qua, Washington đã đặt nhiều hi vọng vào Ấn Độ trên vũ đài thế giới.
Rộng lớn, đông dân và giàu tài nguyên, xét theo tất cả các biểu hiện bề ngoài, Ấn
Độ là một cường quốc đã sẵn sàng. Và với tư cách là nền dân chủ lớn nhất thế giới,
theo những hi vọng đó, nước này hứa hẹn sẽ trở thành đối tác quan trọng của Mỹ
vào thời điểm cuộc cạnh tranh giữa các bên thách thức đang ngày càng gia tăng.
Binh lính tại biên giới Trung-Ấn
ở Himalaya, tháng 7/2006 (Ảnh: AP)
Gần 20 năm trước, cũng dựa trên những kỳ vọng như vậy,
Washington đã bắt đầu giải quyết những bất đồng từ lâu đã kìm hãm mối quan hệ Mỹ-Ấn
trong suốt giai đoạn Chiến tranh Lạnh và cho đến những năm 1990. Dưới thời Tổng
thống George W. Bush, các quan chức Mỹ không còn khăng khăng yêu cầu Ấn Độ phải
từ bỏ vũ khí hạt nhân, cho phép Washington và New Delhi ký kết một thỏa thuận hạt
nhân mang tính bước ngoặt và mở đường cho các khoản đầu tư khổng lồ của Mỹ - cả
về ngoại giao, kinh tế và quân sự - nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự trỗi dậy
của Ấn Độ. Các đời chính quyền Mỹ kế nhiệm đã cho phép Ấn Độ tự do tiếp cận các
công nghệ quân sự và thúc đẩy vai trò của Ấn Độ tại các thể chế quốc tế, đỉnh
điểm là việc Tổng thống Mỹ Barack Obama tán thành nguyện vọng của Ấn Độ trở
thành thành viên thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Mặc dù bị đẩy
vào tình thế khó khăn do Chính quyền Trump coi thường vai trò của các đồng minh
và đối tác, nhưng cách tiếp cận cơ bản này của Mỹ vẫn được duy trì cho tới ngày
nay.
Tuy vậy, logic của mối quan hệ Mỹ-Ấn vẫn bị nhiều
người hiểu lầm, đặc biệt là ở Mỹ. Sự thay đổi trong quan hệ Mỹ-Ấn kể từ những
năm đầu thế kỷ này đã làm nảy sinh nhiều dự đoán cho rằng sớm hay muộn, hai quốc
gia này sẽ trở thành đồng minh, liên kết chặt chẽ gần như trong mọi vấn đề
chính sách đối ngoại lớn, nhưng gần như chỉ trên danh nghĩa. Việc một hiệp ước
như vậy vẫn chưa được hiện thực hóa đã dần gây cảm giác thất vọng và nghi ngờ về
khả năng tồn tại lâu dài của mối quan hệ này.
Những người chỉ trích bắt bẻ rằng Mỹ đã đầu tư quá mức
vào Ấn Độ, những ưu ái dành cho New Delhi đã không được đền đáp xứng đáng. Chẳng
hạn, họ nhắc đến việc Ấn Độ không thể chọn một loại máy bay chiến đấu của Mỹ
cho lực lượng không quân nước này, hoặc việc Ấn Độ không thể ký kết mua lò phản
ứng hạt nhân như đã hứa hẹn trong thỏa thuận hạt nhân mang tính đột phá. Ngay cả
những người ủng hộ quan hệ đối tác giữa hai nước đôi khi cũng bực bội do mối
quan hệ này đã tốn quá nhiều thời gian mà không mang lại kết quả như mong đợi.
Chính quyền Trump đã đẩy sự thất vọng đi xa hơn, tập trung ít hơn vào tiềm năng
của Ấn Độ với tư cách là một đối tác mà thay vào đó tập trung vào tình trạng mất
cân bằng thương mại với Mỹ. Gần đây Mỹ đã rút lại đặc quyền tiếp cận thương mại
của Ấn Độ với Mỹ theo chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), thẳng thừng
thông báo quyết định này chỉ vài giờ sau khi Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi
tuyên thệ nhậm chức lần thứ hai sau chiến thắng ngoạn mục của ông trong cuộc bầu
cử vào mùa Xuân vừa qua.
Cả những người chỉ trích lẫn những người ủng hộ mối
quan hệ Mỹ-Ấn dường như đều nhất trí rằng cam kết mới giữa hai nền dân chủ này
vẫn chưa mang lại sự gắn kết giống như một liên minh mà hai bên từng hi vọng.
Những lời phàn nàn này là không chính xác. Kể từ đầu thế kỷ này, Ấn Độ đã ủng hộ
mạnh mẽ trật tự quốc tế do Mỹ dẫn dắt, mặc dù tỏ ra không quan tâm đến một liên
minh với Mỹ. Nếu mục tiêu của Mỹ là biến Ấn Độ thành một đồng minh thân cận, dù
chính thức hay không, thì Mỹ cũng sẽ thất bại. Thay vào đó, Washington và New
Delhi cần phải cố gắng tạo dựng một mối quan hệ đối tác hướng tới các lợi ích
chung mà không trông chờ vào một liên minh dưới bất cứ hình thức nào. Nói một
cách đơn giản, thước đo cho sự thành công trong những nỗ lực của Mỹ ở Ấn Độ
không phải là những gì Ấn Độ làm cho Mỹ mà là những gì Ấn Độ làm cho chính
mình: Nếu New Delhi kết hợp các nỗ lực kinh tế và chính trị để tự biến mình
thành một cường quốc – đặc biệt là vào thời điểm ảnh hưởng của Trung Quốc đang
ngày càng gia tăng – thì tham vọng của Washington nhằm duy trì cái mà Cố vấn an
ninh quốc gia khi đó là Condoleezza Rice từng gọi là “cán cân sức mạnh ủng hộ sự tự do” sẽ được
thỏa mãn ở châu Á.
Để đạt được mục tiêu đó, các quan chức Mỹ và Ấn Độ
phải cùng suy nghĩ về mối quan hệ này theo một cách khác. Cuối cùng, trở ngại lớn
nhất đối với một mối quan hệ đối tác sâu sắc hơn chính là sự ảo tưởng về những
gì mình có thể đạt được.
Chủ nghĩa vị tha chiến lược
Quan hệ Mỹ-Ấn đã trải qua một sự thay đổi mạnh mẽ
ngay sau khi Bush (con) lên nắm quyền tổng thống vào năm 2001. Bush đã tìm cách
thúc đẩy hợp tác với Ấn Độ theo những cách sẽ khắc phục các bất đồng hiện có và
giúp cả hai bên đưa ra định hướng cho thế kỷ mới. Mặc dù cuộc chiến chống khủng
bố đã mang lại cơ hội hợp tác đầu tiên (vì cả hai nước phải đối mặt với mối đe
dọa từ các tổ chức thánh chiến), nhưng một thách thức chung lớn hơn đã hiện ra:
sự trỗi dậy của Trung Quốc. Xét tới các tranh chấp biên giới đã có từ lâu với
Trung Quốc, sự hỗ trợ của Trung Quốc dành cho đối thủ đáng gờm của Ấn Độ là
Pakistan, và ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc ở Nam Á và xa hơn nữa, Ấn Độ
có mối quan ngại lớn về Trung Quốc. Cụ thể, các nhà lãnh đạo ở New Delhi lo sợ
rằng một Trung Quốc quá mạnh có thể kìm hãm sự tự do và an ninh của các nước
láng giềng yếu hơn. Về phần mình, Mỹ đã bắt đầu coi sự trỗi dậy của Trung Quốc
là một mối đe dọa đối với các đồng minh của họ như Đài Loan và Nhật Bản.
Washington cũng lo lắng về các tham vọng của Bắc Kinh muốn Trung Quốc dần thay
thế Mỹ trở thành bên đảm bảo an ninh chủ chốt ở châu Á và sự phản đối ngày càng
mạnh mẽ của Trung Quốc đối với một hệ thống toàn cầu được củng cố nhờ ưu thế của
Mỹ. Trong những lĩnh vực có liên quan đến Trung Quốc, Mỹ và Ấn Độ có lợi ích quốc
gia đan xen. Washington tìm cách duy trì sự ổn định ở châu Á thông qua một dạng
trật tự không dựa trên ưu thế của Trung Quốc mà dựa vào an ninh và chủ quyền của
tất cả các nước trong khu vực. Bị thúc đẩy bởi nỗi lo sợ về sự thống trị của Bắc
Kinh, Ấn Độ đã ủng hộ tầm nhìn của Washington hơn là của Bắc Kinh.
Đối với Ấn Độ, việc vô hiệu hóa những hiểm họa do một
Trung Quốc đang lớn mạnh gây ra đòi hỏi nước này phải khôi phục sức mạnh của
chính mình – nói cách khác, phải tự mình trở thành một cường quốc. Nhưng Thủ tướng
Ấn Độ khi đó là Atal Bihari Vajpayee và những người kế nhiệm ông nhận ra rằng
trong ngắn hạn, họ không thể tự mình đạt được mục tiêu này. Nền dân chủ cứng nhắc,
những yếu kém về thể chế và văn hóa chiến lược thụ động của Ấn Độ sẽ cản trở họ
tích lũy sức mạnh quốc gia một cách nhanh chóng. Sự hỗ trợ có phối hợp từ các
cường quốc bên ngoài có thể giảm thiểu những điểm yếu này – và không đối tác
bên ngoài nào có vai trò quan trọng như Mỹ. Sự hỗ trợ của Mỹ có thể tạo ra sự
khác biệt giữa việc cân bằng một cách hiệu quả và một ván cược đã nắm chắc phần
thua.
Chính quyền Bush hiểu rất rõ tình thế khó khăn của Ấn
Độ. Sau nhiều trận chiến quan liêu khốc liệt, Mỹ đã phải chấp nhận luận điểm trọng
tâm do Đại sứ quán Mỹ tại New Delhi nêu ra: Mỹ nên gạt sang một bên chính sách
không phổ biến vũ khí hạt nhân đã có từ lâu liên quan đến Ấn Độ, coi đó như một
phương tiện nhằm xây dựng Ấn Độ thành một cường quốc có thể đối trọng với Trung
Quốc. Do đó, Washington đã bắt đầu truyền đạt sự ủng hộ dành cho New Delhi theo
những cách mà trước đó vài năm, người ta dường như không thể tưởng tượng được.
Mỹ đã bắt đầu làm việc với Ấn Độ trong 4 lĩnh vực mà trong đó, việc Ấn Độ sở hữu
vũ khí hạt nhân từng khiến cho mọi sự hợp tác đều bất khả thi: an toàn hạt nhân
dân sự, các chương trình không gian dân sự, thương mại công nghệ cao và phòng
thủ tên lửa. Thỏa thuận hạt nhân dân sự - động thái đặt nền móng cho thành tựu
của Bush trong nhiệm kỳ thứ hai - đã mở đầu cho việc khôi phục hợp tác với New
Delhi về năng lượng hạt nhân dân sự mà không yêu cầu nước này từ bỏ vũ khí hạt
nhân.
Những người hoài nghi ở trong và ngoài chính phủ lập
luận rằng Mỹ chỉ nên đề nghị hỗ trợ ở mức độ mà Ấn Độ có thể đáp lại bằng cách
liên tục điều chỉnh các chính sách của mình sao cho phù hợp với các mục tiêu của
Washington. Nhưng một đòi hỏi như vậy sẽ là công thức cho sự thất bại. Ấn Độ lớn
đến mức không thể từ bỏ các lợi ích quốc gia sống còn khi chúng xung đột với
các ưu tiên của Mỹ, và lòng tự tôn của họ lớn đến mức không thể trở thành tay
sai của Washington. Ấn Độ cũng yếu hơn nhiều so với Mỹ và không thể thường
xuyên đóng góp trực tiếp vào việc hiện thực hóa các mục tiêu của Mỹ.
Các chính sách hào phóng của Mỹ không chỉ đơn thuần
là một sự ưu ái dành cho New Delhi; chúng là một bài tập có ý thức về lòng vị
tha chiến lược. Khi tính toán các hình thức hỗ trợ chính trị khác nhau dành cho
Ấn Độ, các nhà lãnh đạo Mỹ không đặt câu hỏi: “Ấn Độ có thể làm gì cho chúng
ta?”. Họ hi vọng rằng quỹ đạo đi lên của Ấn Độ sẽ thay đổi cán cân sức mạnh ở
châu Á theo những cách có lợi cho Mỹ và từ đó ngăn Bắc Kinh lạm dụng tầm ảnh hưởng
ngày càng tăng của nước này trong khu vực. Một Ấn Độ hùng mạnh về cơ bản sẽ có
lợi cho Washington, ngay cả khi New Delhi thường làm theo cách của mình trong một
số vấn đề chính sách cụ thể. Cả Bush lẫn người kế nhiệm ông, Obama, đều nhắm mắt
làm ngơ trước các lập trường của Ấn Độ trong các cuộc đàm phán thương mại quốc
tế, nền kinh tế gần như khép kín của nước này và hồ sơ biểu quyết của Ấn Độ tại
Liên hợp quốc, tất cả đều đi ngược lại các ưu tiên của Mỹ.
Quan hệ đối tác Mỹ-Ấn được xây dựng dựa trên những
tính toán cẩn trọng của mỗi bên: Washington, bất an trước viễn cảnh về một
Trung Quốc đang nổi lên, đã tìm cách xây dựng các trung tâm quyền lực mới ở
châu Á. Trong khi đó, New Delhi hi vọng có thể đối trọng với Trung Quốc bằng
cách tăng cường sức mạnh quốc gia của chính mình, với Mỹ đóng vai trò vừa là
nguồn hỗ trợ, và nói một cách rộng hơn, vừa là người bảo vệ cho trật tự quốc tế
tự do. Theo những điều kiện này, quan hệ đối tác giữa hai nước đã phát triển mạnh
mẽ. Hai bên đã ký kết một thỏa thuận hợp tác quốc phòng năm 2005 – thỏa thuận hợp
tác quốc phòng đầu tiên New Delhi ký với bất kỳ quốc gia nào – và tiến tới ký kết
Tầm nhìn chiến lược chung Mỹ-Ấn cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương năm 2015; các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ, phá vỡ sự miễn cưỡng trong
quá khứ, đã ủng hộ mục tiêu của Mỹ “đảm bảo quyền tự do hàng hải và hàng không
trên toàn khu vực, đặc biệt là ở Biển Đông”, và nhất trí với một lộ trình hướng
tới hợp tác quân sự song phương trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, cùng
với nhiều điều khác. Các thương vụ Ấn Độ mua bán trang thiết bị quân sự của Mỹ
vì mục tiêu quốc phòng đã gia tăng đáng kể - từ con số 0 trong năm 2000 đã tăng
lên hơn 18 tỷ USD năm 2018 – khi New Delhi bắt đầu chuyển hướng khỏi Nga, nước
cung cấp vũ khí chính cho Ấn Độ theo truyền thống. Hợp tác Mỹ-Ấn đã tăng cường
trong một số lĩnh vực, trong đó có chống khủng bố, chia sẻ thông tin tình báo,
quan hệ giữa quân đội hai nước, an ninh không gian mạng, cũng như các vấn đề nhạy
cảm khác như biến đổi khí hậu và an ninh hạt nhân. Đối với hai quốc gia đã từng
bất hòa cách đây 3 thập kỷ, đây là một thành tựu đáng chú ý.
Chuỗi ngọc trai
Tổng thống Mỹ
Donald Trump đã làm phức tạp thêm mối quan hệ này. Chính quyền của ông đã chuyển
từ chủ nghĩa vị tha chiến lược sang một khái niệm hẹp hơn và vị kỷ hơn về các lợi
ích quốc gia của Mỹ. Tầm nhìn “Nước Mỹ trước tiên” đã đảo ngược một giao
kèo hậu Chiến tranh thế giới thứ hai rằng Mỹ sẽ chấp nhận những gánh nặng không
tương xứng thay cho các nước bạn bè của mình, hiểu rằng thành công chung của
các nước dân chủ sẽ phục vụ cho lợi ích của Washington. Tất nhiên, Ấn Độ là một
bên hưởng lợi của giao kèo này ít nhất kể từ năm 2001.
Theo một số cách, quan hệ Mỹ-Ấn không thay đổi nhiều
trong kỷ nguyên của Trump như nhiều người dự đoán. Có một số lý do để mối quan
hệ này tiếp diễn. Thứ nhất, New Delhi nhận thấy các cơ hội chính sách đối ngoại
trong chiến thắng của Donald Trump – chẳng hạn như khả năng Mỹ cải thiện quan hệ
với Nga - một đồng minh lâu đời của Ấn Độ, và kiềm chế hơn trong việc sử dụng
vũ lực ở bên ngoài, trao cho Ấn Độ ảnh hưởng lớn hơn để thúc đẩy tầm nhìn của
nước này về một trật tự thế giới đa cực. Nhiều người cũng tin rằng Trump có thể
ít gây sức ép hơn đối với Ấn Độ trong các chính sách khí hậu và quan hệ của nước
này với Pakistan.
Trên hết, tính toán an ninh căn bản của Ấn Độ không
hề thay đổi. Các nhà lãnh đạo ở New Delhi vẫn tin rằng Trung Quốc đang cố gắng
thay thế Mỹ trở thành cường quốc hàng đầu ở châu Á, rằng kết quả này sẽ vô cùng
tồi tệ đối với Ấn Độ, và chỉ có mối quan hệ đối tác mạnh mẽ với Mỹ mới có thể
ngăn chặn điều đó. Như một nhà hoạch định chính sách cấp cao của Ấn Độ đã nói,
sự trỗi dậy của Trung Quốc “mạnh mẽ đến mức nó có thể khiến cho mọi chính phủ
khác phải xem xét lại các nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của họ”.
New Delhi đặc biệt lo ngại rằng Trung Quốc đang bao
vây Ấn Độ bằng một “chuỗi ngọc trai” – một tập hợp các căn cứ hải quân và cơ sở
lưỡng dụng ở Ấn Độ Dương mà sẽ đe dọa an ninh của Ấn Độ. Một trung tâm vận chuyển
do Trung Quốc tài trợ ở Sri Lanka và một cảng nước sâu do Trung Quốc kiểm soát ở
Pakistan đã thu hút sự quan tâm đặc biệt. Trung Quốc cũng đã đầu tư 46 tỷ USD
vào một phần trong sáng kiến “Vành đai và Con đường” chạy qua Kashmir, khu vực
được cả Ấn Độ lẫn Pakistan tuyên bố chủ quyền. Sự hỗ trợ về kinh tế, chính trị
và quân sự của Trung Quốc dành cho Pakistan, đối thủ của Ấn Độ trong suốt 70
năm và cũng là kẻ thù trong 3 cuộc chiến lớn, cho thấy Trung Quốc đang cố gắng
lập ra một yếu tố đối trọng với Ấn Độ trong khu vực.
Ấn Độ cũng quan sát trong tâm trạng ngày càng lo lắng
khi Trung Quốc quân sự hóa bất hợp pháp các đảo nhân tạo ở Biển Đông, phản đối Ấn Độ trở
thành thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và ngăn chặn Ấn Độ gia nhập Nhóm
các nước cung cấp hạt nhân, một tổ chức quốc tế gồm các quốc gia cung cấp hạt
nhân cam kết không phổ biến vũ khí hạt nhân. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối
với một vùng lãnh thổ rộng lớn của Ấn Độ ở dãy Himalaya, đặt câu hỏi về chủ quyền
của Ấn Độ đối với Kashmir, và vào năm 2018 đã gây ra một cuộc đối đầu quân sự với
binh lính Ấn Độ trên lãnh thổ Bhutan. Ở Tây Tạng, Trung Quốc đã xây dựng những
con đập có khả năng hạn chế dòng chảy vào Ấn Độ, làm trầm trọng thêm tình trạng
khan hiếm nước và khiến việc kiểm soát lũ ở vùng đồng bằng Ấn Độ trở nên phức tạp
hơn.
Phản ứng của Ấn Độ trước mối đe dọa ngày càng gia
tăng từ phía Trung Quốc là phát triển năng lực của riêng mình, trong đó có các
khả năng quân sự. Nhưng Chính phủ Ấn Độ nhận ra rằng chỉ Mỹ mới có sức mạnh cần
thiết để ngăn chặn Trung Quốc trở thành bá chủ châu Á trong những thập kỷ tới.
Do đó, việc thúc đẩy mối quan hệ với Mỹ vẫn là ưu tiên chính sách đối ngoại
hàng đầu của Ấn Độ. Thái độ cởi mở như vậy đối với ảnh hưởng của Mỹ trái ngược
hoàn toàn với lời kêu gọi “người châu Á điều hành sự vụ ở châu Á, giải quyết
các vấn đề của châu Á và bảo vệ an ninh châu Á” của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình - một tầm nhìn an ninh khu vực không có Mỹ.
Phấn chấn nhờ
hy vọng rằng Washington sẽ tiếp tục đóng vai trò là bên bảo đảm an ninh kiên định
ở châu Á, Ấn Độ bắt đầu thể hiện lập trường cứng rắn hơn nhiều đối với Trung Quốc. Nước này đã lên án các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo
ở Biển Đông và việc Trung Quốc quân sự hóa các đảo này, cũng như các nỗ lực của
Trung Quốc nhằm làm suy yếu tinh thần đoàn kết của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), nhấn mạnh tầm quan trọng của “vai trò trung tâm của ASEAN” trong
chính sách Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của họ. New Delhi cũng đã bắt đầu can dự
nhiều hơn vào Đối thoại an ninh bốn bên, một nhóm không chính thức gồm Úc, Ấn Độ,
Nhật Bản và Mỹ nhằm thảo luận về cách thức bảo vệ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình
Dương trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ngoài ra, New Delhi phản đối mạnh mẽ
hơn nữa sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Bắc Kinh bằng cách hợp tác với Nhật
Bản trong các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng ở Nam Á và Đông Nam Á cũng như ở châu
Phi.
Điều quan trọng
nhất là trong những năm cuối của Chính quyền Obama, Ấn Độ đã bắt đầu âm thầm hợp
tác với quân đội Mỹ thông qua việc chia sẻ thông tin tình báo, đồng thời tiếp tục
mở rộng các cuộc tập trận quân sự với Mỹ. Về phần mình,
Chính quyền Trump đã bắt đầu quyết tâm đối đầu với Trung Quốc, khiến New Delhi
rất hài lòng. Chính quyền Trump cũng đã đưa ra cả chiến lược Nam Á lẫn chiến lược
Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nhấn mạnh vai trò then chốt của Ấn Độ trong khu vực,
cho phép Ấn Độ mua máy bay không người lái và các hệ thống vũ khí tiên tiến
khác, và đặt Ấn Độ ngang hàng với các đồng minh NATO trong việc trao đổi các
công nghệ nhạy cảm. Các dự án quốc phòng khác, chẳng hạn như việc Ấn Độ mua các
công nghệ quân sự tiên tiến để hành động chống lại sự hiện diện ngày càng lớn của
Trung Quốc ở Ấn Độ Dương, vẫn đang trong giai đoạn lập kế hoạch, nhưng dù sao vẫn
đáng lưu ý đối với một đất nước vốn từ lâu đã ca ngợi giá trị của lập trường
không liên kết.
Mối quan hệ mất phương hướng?
Tuy nhiên,
quan hệ Mỹ-Ấn hầu như không thể tránh khỏi những hệ quả của chính sách đối ngoại
gây rối loạn và thường phản tác dụng của Chính quyền Trump. Các nhà lãnh đạo Ấn Độ muốn Washington giữ thái độ vị tha chiến lược
truyền thống đối với New Delhi đồng thời làm bất kỳ điều gì cần thiết để bảo vệ
một trật tự quốc tế tự do mà sẽ được mở ra cho một Ấn Độ đang trỗi dậy. Trên cả
hai phương diện, hành động của Trump đều khiến họ bồn chồn.
Trump đã hoài nghi về giá trị của các liên minh của
Mỹ và làm dấy lên những nghi ngờ về việc liệu Mỹ có bảo vệ các đồng minh NATO của
nước này trước một cuộc tấn công của Nga hay không, khiến ngay cả những nhân vật
kiên quyết ủng hộ Mỹ như Modi cũng phải tự hỏi liệu Ấn Độ có thể trông cậy vào
sự trợ giúp của Mỹ trong trường hợp xảy ra một cuộc khủng hoảng lớn với Trung
Quốc hay không. Lo ngại gia tăng khi có sự nghi ngờ rằng nước Mỹ dưới thời
Trump bị chia rẽ nội bộ gay gắt đến mức không thể tập trung sức mạnh, sự đoàn kết
và quyết tâm cần thiết để cạnh tranh với Trung Quốc trong dài hạn. Trump cũng
đã phát động cuộc chiến thương mại với các đồng minh như Nhật Bản và EU, và các
nhà hoạch định chính sách Ấn Độ giờ đây đang phải vật lộn với các biện pháp trừng
phạt thương mại của Trump nhằm vào Ấn Độ; cuối năm 2018, Trump đã gọi Ấn Độ là
“vua thuế quan”. Tương tự, khi xét tới việc Chính quyền Trump đã đưa ra những
quyết định chính sách trọng yếu có liên quan đến chương trình hạt nhân của Triều
Tiên mà không tham vấn Hàn Quốc hay Nhật Bản, ai có thể khẳng định được
Washington sẽ sẵn sàng giúp đỡ trong các vấn đề có liên quan tới lợi ích sống
còn của Ấn Độ? Cách tiếp cận của Chính quyền Trump đối với vấn đề hòa bình và
hòa giải ở Afghanistan, mà không cân nhắc tới các lợi ích của Ấn Độ, đã giúp
New Delhi nhận thức rõ điều này. Trump phần lớn bỏ qua đòi hỏi cấp thiết là bảo vệ các liên minh của Mỹ
ở châu Á trước sự trỗi dậy của Trung Quốc - bất chấp vai trò trung tâm của lục
địa này trong các văn kiện chính sách mà chính quyền của ông đã công bố.
Trump có vẻ không mấy quan tâm tới những vấn đề nằm ngoài cán cân thương mại giữa
Mỹ và các nước lớn ở châu Á. Thay vào đó, ông đã chọn cách đẩy mạnh đầu tư vào
mối quan hệ cá nhân với các nhà lãnh đạo chuyên quyền như Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình và nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un. Tính khí thất thường của
Trump, vốn khiến người ta phải nghi ngờ về độ tin cậy của các cam kết mà ông
đưa ra, cũng như sự ra đi của những người ủng hộ Ấn Độ trong Chính quyền Trump,
chẳng hạn như cựu Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis, chỉ khiến tình hình càng
thêm tồi tệ, bất chấp những nỗ lực gần đây của Ngoại trưởng Mike Pompeo nhằm cải
thiện tình trạng mất phương hướng của quan hệ Mỹ-Ấn.
Câu hỏi khó trả lời mà các nhà hoạch định chính sách
Ấn Độ đang phải đối mặt là liệu họ có thể tiếp tục trông cậy vào mối quan hệ hợp
tác với một Washington mà dường như đã từ bỏ trật tự quốc tế tự do và hầu như
không nhiệt tình với việc tiếp tục tỏ thái độ vị tha chiến lược với New Delhi.
Mặc dù muốn có quan hệ vững mạnh hơn với Washington - một phần vì Modi đã dành
nhiều vốn liếng cho công cuộc này - song họ đã bắt đầu đa dạng hóa danh mục vốn
đầu tư quốc tế của Ấn Độ và cải thiện quan hệ của New Delhi với Bắc Kinh và Mát-xcơ-va. Tháng 6/2018,
chính Modi đã sử dụng một bài phát biểu quốc tế quan trọng để làm sống lại khái
niệm “tự chủ chiến lược”, một cụm từ cũ rích của Ấn Độ mà theo truyền thống phản
ánh chính sách tìm kiếm quan hệ tốt đẹp với Mỹ sao cho không để bị Trung Quốc
hay Nga xa lánh. Việc Modi lựa chọn cách phòng vệ địa chính trị như vậy dù biết
rõ rằng chiến lược này sẽ không bảo vệ Ấn Độ trước thái độ thù địch gia tăng của
Trung Quốc nói lên nhiều điều về cuộc khủng hoảng niềm tin của Ấn Độ đối với nước
Mỹ của Trump với tư cách một đối tác an ninh.
Những bất đồng gay gắt kéo dài về vấn đề thương mại,
Iran và Nga đã làm phức tạp hơn nữa mối quan hệ này. Tháng 9/2018, để đối phó với
sự giảm giá của đồng rupee so với đồng USD, Chính quyền Modi đã tuyên bố áp thuế
đối với nhiều mặt hàng nhập khẩu như nhiên liệu máy bay, nhựa, đá quý và giày
dép. Sau nhiều lần trì hoãn việc đạt được một dàn xếp trong tranh chấp thương mại
với Mỹ, Ấn Độ cũng đã áp thuế đối với nông sản và kim loại của Mỹ để đáp trả
thuế quan của Mỹ đối với thép và nhôm nhập khẩu. New Delhi cũng lo ngại về những
khó khăn ngày càng gia tăng mà các công dân Ấn Độ đang phải đối mặt khi xin thị
thực H1-B, vốn cho phép người lao động làm các công việc chuyên môn ở Mỹ. Về phần
mình, Washington muốn giảm bớt rào cản đối với Mỹ trong việc tiếp cận thị trường
Ấn Độ, vốn bị cản trở bởi thuế quan đối với nông sản và hàng chế tạo - mặt hàng
bị đánh thuế do sáng kiến “Make in India” với mục đích thúc đẩy hoạt động chế tạo
trong nước. Các công ty Mỹ ở Ấn Độ cũng phải đối mặt với những hạn chế về thu
thập dữ liệu và giá cả các sản phẩm y tế.
Mỹ và Ấn Độ hiện đang thảo luận về cách thức giải
quyết các vấn đề này, nhưng cấu trúc của một thỏa thuận tiềm năng vẫn chưa rõ
ràng. Washington có thể áp dụng cơ chế miễn thuế thép và nhôm lâu dài đối với
New Delhi, có thể là để đổi lấy những nhượng bộ cụ thể về giá cả thiết bị y tế
và hàng hóa công nghệ thông tin nhập khẩu. Nhưng Chính quyền Trump có khả năng
sẽ không chấm dứt các cuộc đối đầu thương mại trong thời gian tới. Và Ấn Độ có
khả năng sẽ không mở cửa đáng kể các thị trường của nước này trong tương lai gần:
Tự do hóa thương mại vẫn nằm ở cuối danh sách các cuộc cải cách kinh tế trong
tương lai của Ấn Độ, phần lớn vì nước này muốn bảo vệ nền kinh tế của họ khỏi sự
cạnh tranh của nước ngoài càng lâu càng tốt. Mặc dù còn tiến hành những cải
cách kinh tế khác, nhưng Modi thực ra đã kéo Ấn Độ lùi lại một bước trong
thương mại khi tăng thuế để tạo thu nhập. Bất chấp nguy cơ chủ nghĩa bảo hộ gia
tăng có thể phá hoại sự tiến bộ của đất nước từ khi nước này tự do hóa chế độ
thương mại vào đầu những năm 1990, đe dọa giấc mơ của Modi biến Ấn Độ trở thành
một cường quốc hàng đầu và làm trầm trọng thêm những xung đột thương mại với
Washington, New Delhi dường như không có tầm nhìn cũng như mong muốn tự do hóa
thương mại.
Iran
là một vấn đề lớn gây tranh cãi khác. Ấn Độ, với mối
quan hệ từ nhiều thế kỷ trước với Iran, ủng hộ mạnh mẽ thỏa thuận hạt nhân Iran
năm 2015. Trước đó, nước này lo ngại rằng một cường quốc hạt nhân dòng Shiite
chắc chắn sẽ kích động một làn sóng phổ biến hạt nhân trong thế giới Arập dòng
Sunni, khiến Ấn Độ phải đối phó với thêm nhiều cường quốc hạt nhân Hồi giáo ở
phía Tây. Sau khi Chính quyền Trump rút khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran, vào
tháng 5/2018, Ấn Độ đã cùng với nhiều nước khác tìm cách duy trì sự tồn tại của
các yếu tố trong thỏa thuận này và né tránh các biện pháp trừng phạt của Mỹ nhằm
vào Iran, nhất là đối với dầu mỏ. Khi Mỹ áp đặt trở lại các biện pháp trừng phạt
đối với dầu mỏ vào tháng 11/2018, Ấn Độ là một trong số 8 quốc gia được Mỹ miễn
trừng phạt trong 6 tháng. Sau đó, trong một nỗ lực nhằm xoa dịu Mỹ, Ấn Độ đã giảm
mạnh nhập khẩu dầu mỏ từ Iran, bất chấp việc nước này coi trọng mối quan hệ hợp
tác của họ với Iran (một phần vì Iran cho phép Ấn Độ tiếp cận Afghanistan mà
không phải đi qua lãnh thổ Pakistan). Chính quyền Trump muốn Ấn Độ hợp tác
trong cuộc đối đầu với Iran, nhưng Ấn Độ lại miễn cưỡng đụng độ với Iran vào thời
điểm họ đã làm nhiều hơn so với những đòi hỏi ban đầu của Mỹ trong việc giảm
thiểu nhập khẩu năng lượng từ Iran. Do đó, Iran có khả năng vẫn sẽ là nguyên
nhân gây xích mích trong quan hệ Mỹ-Ấn trong tương lai gần.
Quan
hệ với Nga là một chướng ngại vật khác. Ấn Độ lo ngại rằng
bất chấp việc Tổng thống Donald Trump rõ ràng muốn cải thiện quan hệ với Tổng
thống Nga Vladimir Putin, Chính phủ Mỹ đang đẩy Nga vào mối quan hệ ngày càng gần
gũi hơn với Trung Quốc, trong đó có việc tăng cường hợp tác giữa quân đội hai
nước. Đồng thời, New Delhi cũng quyết tâm bảo vệ quan hệ với Mát-xcơ-va, trong đó có quan
hệ hợp tác quốc phòng kéo dài hàng thập kỷ. Tháng 10/2018, Ấn Độ tuyên bố thỏa
thuận mua hệ thống phòng không S-400 trị giá 6 tỷ USD của Nga, và hai nước đã
tái khẳng định quan hệ đối tác quân sự giữa họ. Nếu Chính quyền Trump không ban
hành lệnh miễn trừ đối với thương vụ này, thì thỏa thuận nói trên sẽ kích hoạt
các biện pháp trừng phạt gián tiếp nhằm vào Ấn Độ theo Đạo luật chống lại các đối
thủ của Mỹ thông qua các biện pháp trừng phạt (CAATSA). Tuy vậy, Nirmala
Sitharaman, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ, đã tuyên bố vào tháng 7/2018
rằng Ấn Độ sẽ không thay đổi lập trường đã có từ lâu của mình đối với S-400 nếu
chỉ dựa trên luật pháp trong nước của Mỹ. (Các quan chức cấp cao trong chính
quyền có vẻ đã hứa hẹn sẽ miễn trừ việc áp đặt lệnh trừng phạt đối với thương vụ
mua S-400 cho Ấn Độ nếu nước này hợp tác bằng cách giảm mua dầu mỏ của Iran - điều
mà họ đã làm - nhưng Chính quyền Mỹ giờ đây dường như đã đổi ý). Cho đến nay,
hai bên dường như đều không có động thái gì, và nếu vấn đề này vẫn không được
giải quyết thì thiệt hại ngoài dự kiến sẽ là rất lớn.
Đối tác chứ không phải đồng minh
Washington đã đi theo đường lối cứng rắn đối với tất
cả những vấn đề này, chí ít là họ đã công khai như vậy. Đó là vì dưới thời
Trump, thái độ vị tha chiến lược đối với Ấn Độ đã nhường chỗ cho những đòi hỏi
về hành động có đi có lại cụ thể. Tuy nhiên, kỳ vọng này của Mỹ, mà ngay cả các
đồng minh hiệp ước với Mỹ cũng khó lòng thỏa mãn, là quá lớn so với khả năng
đáp ứng của Chính phủ Ấn Độ cho dù thân thiện với Mỹ. New Delhi sẵn lòng hợp
tác khi các lợi ích quốc gia chung đang bị đe dọa, như trong việc tạo thế cân bằng
với Trung Quốc, nhưng sẽ tìm kiếm khả năng làm theo cách của riêng mình mà
không bị trừng phạt khi lợi ích của Mỹ và của Ấn Độ là khác nhau.
Rốt cuộc, cách tiếp cận của cả Mỹ lẫn Ấn Độ đều
không đem lại nền tảng ổn định cho hợp tác dài hạn, mà sẽ chỉ dẫn tới những
chua cay và thất vọng. Mỹ cần phải nhận ra rằng Ấn Độ không phải là đồng minh
và sẽ không hành xử như một đồng minh, mặc dù có những vấn đề mà trong đó các lợi
ích sống còn của hai quốc gia phù hợp với nhau. Việc tăng cường những sự hội tụ
đó phải được Washington ưu tiên. Để đạt được mục tiêu này, trong một số hoàn cảnh
nhất định, Mỹ nên ngừng đưa ra những đòi hỏi đối với Ấn Độ mà có thể đe dọa
quan hệ của New Delhi với các đối tác khác của nước này: khi các lợi ích sống
còn của Mỹ không bị đe dọa, khi những đòi hỏi này sẽ phá hoại sự tiến bộ hướng
tới việc chung tay tạo thế cân bằng với Trung Quốc, và khi chúng có liên quan tới
những bất đồng thứ yếu trong mối quan hệ song phương với Ấn Độ. Và Ấn Độ không
nên chắc chắn rằng Mỹ sẽ duy trì thái độ vị tha chiến lược, cũng như nên ngừng
giả định rằng họ có thể dựa vào sự hào phóng tiếp tục của Mỹ ngay cả khi không
có bất kỳ nỗ lực nào từ phía New Delhi nhằm khiến cho sự hào phóng đó trở nên
đáng giá. Đối với Ấn Độ, điều này đồng nghĩa với việc đóng góp cho trật tự quốc
tế tự do vào thời điểm mà cam kết của Washington về việc gánh vác những phí tổn
đó đang lung lay, đẩy nhanh hợp tác quốc phòng với Mỹ và theo đuổi những cải
cách kinh tế mà sẽ cho phép các doanh nghiệp Mỹ tiếp cận nhiều hơn với nền kinh
tế ngày càng tăng trưởng của Ấn Độ.
Hai bên cần ưu tiên hợp tác thực tế nhằm tạo thế cân
bằng với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Họ cần bắt đầu bằng việc thường xuyên chia
sẻ thông tin tình báo về hoạt động hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc và
thông tin thời gian thực về những động thái quân sự của Trung Quốc ở Ấn Độ
Dương. Mỗi bên có thể cho phép quân đội của bên kia sử dụng các cơ sở của mình
để luân phiên tiếp cận. Và bằng việc hợp tác trong tác chiến chống tàu ngầm và
tàu mặt nước, phòng không và phòng thủ tên lửa, cũng như công nghệ không gian mạng
và vũ trụ, họ có thể xây dựng một hệ thống chống tiếp cận/ngăn chặn xâm nhập
khu vực chung nhằm hạn chế các hoạt động quân sự của Trung Quốc ở Ấn Độ
Dương-Thái Bình Dương.
Friedrich Nietzsche từng nói: “Việc quên mất ý định
của chúng ta là hành động thường gặp nhất trong tất cả những hành động ngu ngốc”.
Washington và New Delhi cần nhớ rằng mục tiêu cấp bách nhất của họ cho đến nay
không phải là nhất trí về vấn đề thương mại, Iran hay Nga, mà là việc đối phó với
sức mạnh của một Trung Quốc đang trỗi dậy trong những thập kỷ sắp tới. Nếu việc
tạo thế cân bằng với Trung Quốc trong bối cảnh bảo vệ trật tự quốc tế tự do vẫn
là mục tiêu, thì việc hành động hướng tới mục tiêu đó, cả đơn phương lẫn song
phương, sẽ là điều đáng làm đối với cả hai bên, bất chấp tất cả những bất đồng
không thể tránh khỏi trong các vấn đề khác.
Ngọc Tú (gt)
*
Robert D. Blackwill là nhà nghiên cứu cao cấp Henry A. Kissinger về
chính sách đối ngoại Mỹ tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại. Ông là Đại sứ Mỹ tại Ấn
Độ (2001-2003) và Phó Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Mỹ George W. Bush
(2003-2004).
Ashley J. Tellis là Chủ tịch Tata về các vấn đề chiến lược và là
thành viên cao cấp tại Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế. Ông từng là Cố vấn cao
cấp trong Đại sứ quán Mỹ tại New Delhi (2001-2003). Bài viết được đăng trên
trang Foreign Affairs.
---------------------------------
Nguồn :
New Delhi Remains Washington’s Best Hope in Asia
September/October 2019
No comments:
Post a Comment