Sunday, 10 March 2019

VÌ SAO CÁC NỀN VĂN MINH VĨ ĐẠI LẠI SỤP ĐỔ (Luke Kemp - BBC)




Luke Kemp
Đại học Cambridge
10/03/2019

"Những nền văn minh vĩ đại không bị giết chết, mà chúng tự kết liễu mình." Đó là kết luận mà sử gia Arnold Toynbee nêu ra trong bộ nghiên cứu lịch sử đồ sộ gồm 12 quyển của ông, A Study of History, một công trình tìm hiểu về sự trỗi dậy và suy tàn của 28 nền văn minh khác nhau.

Ông nói đúng ở một số khía cạnh: các nền văn minh thường phải chịu trách nhiệm về sự tàn lụi của chính chúng. Tuy nhiên, việc các nền văn minh rơi vào tình trạng tự phá huỷ thường được hỗ trợ bởi những yếu tố khác nữa.

Chẳng hạn như Đế chế La Mã là nạn nhân của nhiều vận hạn, trong đó gồm việc mở rộng lãnh thổ quá mức, tình trạng thay đổi khí hậu, môi trường suy thoái và sự lãnh đạo yếu kém. Sự tan rã một phần nữa là do hậu quả của việc thành Rome bị người Visigoth cướp phá vào năm 310, và rồi đến lượt người Vandal, vào năm 455.

Sự sụp đổ thường xảy ra nhanh chóng và một nền văn minh dù vĩ đại đến đâu cũng không thể miễn nhiễm.

Đế chế La Mã trải rộng trên 4,4 triệu cây số vuông vào năm 390. Năm năm sau, diện tích bị thu lại chỉ còn 2 triệu cây số vuông. Tới năm 476, đế chế này trở thành zero.

Trong quá trình nghiên cứu tại Đại học Cambridge, tôi muốn tìm hiểu xem vì sao sự sụp đổ lại diễn ra, thông qua việc thử làm một cuộc giảo nghiệm lịch sử.

Sự trỗi dậy và sụp đổ của các nền văn minh trong lịch sử có thể nói cho chúng ta biết những gì? Những thế lực nào thúc đẩy hoặc trì hoãn sự sụp đổ? Và chúng ta có nhìn thấy những khuôn mẫu tương tự xảy ra vào thời nay hay không?

Cách đầu tiên để nhìn vào các nền văn minh trong quá khứ là so sánh thời gian tồn tại ngắn, dài của chúng. Đây là việc khó, bởi không có một định nghĩa chặt chẽ thế nào là một nền văn minh, cũng như không có cơ sở dữ liệu hoàn thiện nào cho ta biết về sự ra đời và kết thúc của chúng.

Trong hình minh hoạ dưới đây, tôi so sánh thời gian tồn tại của một số nền văn minh khác nhau, mà tôi định nghĩa đó là các xã hội nông nghiệp có nhiều thành thị, một xã hội mà quân sự đóng vai trò nổi bật trong khuôn khổ khu vực địa lý của nó, và có cấu trúc chính trị tồn tại liên tục, tiếp nối.

Dựa theo định nghĩa này, mọi đế chế đều là nền văn minh, nhưng không phải nền văn minh nào cũng là đế chế.

Dữ liệu được lấy ra từ hai công trình nghiên cứu về sự tăng trưởng và suy tàn của các đế chế (cho các giai đoạn 3000-600 trước Công nguyên, và 600 trước Công nguyên - 600), và một khảo sát không chính thức, tập hợp từ việc kêu gọi mọi người đóng góp thông tin, về các nền văn minh cổ đại (mà tôi có chỉnh sửa).

Như mô tả trong hình dưới đây, thời gian tồn tại trung bình của một nền văn minh cổ đại là 336 năm.

Thời gian tồn tại của các nền văn minh cổ đại

Sự sụp đổ có thể được định nghĩa là tình trạng mất dân, mất bản sắc, và mất đi độ phức tạp xã hội-kinh tế một cách nhanh chóng và kéo dài. Các dịch vụ công trở nên bê bết, tình trạng mất kỷ cương khiến chính phủ mất quyền kiểm soát trước tình trạng bạo lực.

Toàn bộ các nền văn minh trước đây đều đối diện với số phận này.
Một số gượng lại được hoặc chuyển đổi thành dạng khác, chẳng hạn như ở Trung Quốc và Ai Cập. Một số khác sụp đổ vĩnh viễn, như trường hợp Đảo Phục sinh.

Có những lúc các thành phố nằm ở tâm điểm của sự sụp đổ lại hồi sinh, như trường hợp thành Rome.
Trong những trường hợp khác, chẳng hạn như đống phế tích của người Maya, thì chúng bị lãng quên, trở thành tàn tích cho du khách sau này tới thăm.

Điều gì có thể nói cho chúng ta biết về tương lai của nền văn minh hiện đại toàn cầu? Những bài học về các nền văn minh nông nghiệp có áp dụng được cho giai đoạn chủ nghĩa tư bản công nghiệp từ sau Thế kỷ 18 của chúng ta không?
Tôi cho là có. Các xã hội trước kia và hiện nay chỉ là những hệ thống phức tạp gồm con người và công nghệ.

Thuyết "tai nạn bình thường" nói rằng những hệ thống công nghệ phức tạp thường mở đường dẫn tới thất bại. Cho nên sự sụp đổ có lẽ là hiện tượng bình thường cho các nền văn minh, bất kể chúng có kích cỡ, quy mô ra sao.
Chúng ta vào lúc này đang tiến bộ hơn các nền văn minh khác về mặt công nghệ. Thế nhưng điều này không khiến ta tin rằng chúng ta miễn dịch với các mối đe doạ vốn từng hủy hoại tổ tiên chúng ta. Khả năng công nghệ mà chúng ta mới khám phá ra thậm chí còn đem lại những thách thức mới, chưa từng xảy ra.

Hiện nay chúng ta đang đạt quy mô toàn cầu, nhưng việc sụp đổ có vẻ như sẽ xảy ra ở cả các đế chế rộng lớn lẫn các vương quốc còn non nớt. Không có cơ sở gì để tin rằng việc chúng ta phát triển tới quy mô to lớn sẽ giúp tạo ra bộ khiên giáp chống lại tình trạng xã hội tan rã.
Hệ thống kinh tế toàn cầu hoá vốn gắn bó như hình với bóng với xã hội đó, sẽ càng làm cho cuộc khủng hoảng lan rộng.

Nếu như số phận của các nền văn minh trước đây có thể là lộ trình cho tương lai của chúng ta, thì chuyện đó nói lên điều gì?
Ta có thể dùng một biện pháp là xem xét các xu hướng sụp đổ từng xảy ra trong lịch sử và quan sát xem chúng đang dần diễn ra như thế nào trong thời đại này.

Tuy không có bất kỳ một học thuyết đơn lẻ nào được chấp nhận về việc vì sao một nền văn minh lại đi đến sụp đổ, nhưng các sử gia, các nhà nhân chủng học và những người khác đã đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau, trong đó có:

THAY ĐỔI KHÍ HẬU: Khi tình trạng khí hậu không còn ổn định mà bị thay đổi thì nó sẽ gây ra những kết quả vô cùng tai hại, như mùa màng thất bát, nạn đói và sa mạc hoá.
Sự sụp đổ của Anasazi, nền văn minh Tiwanaku, đế quốc Akkad, người Maya, Đế chế La Mã, và nhiều nền văn minh khác, đều xảy ra cùng lúc với sự thay đổi khí hậu đột ngột, mà thường là nạn hạn hán.

MÔI TRƯỜNG SUY THOÁI: Sự sụp đổ có thể xuất hiện khi nhu cầu của xã hội vượt quá khả năng chịu đựng của môi trường tương ứng. Thuyết sụp đổ về sinh thái này, vốn là chủ đề trong các quyển sách ăn khách, chỉ ra rằng tình trạng khai thác rừng quá mức, ô nhiễm nước, đất bạc màu và việc mất đi sự đa dạng sinh học là các nguyên nhân chủ chốt.

BẤT BÌNH ĐẲNG VÀ CHẾ ĐỘ QUYỀN LỰC TẬP TRUNG: Sự bất bình đẳng về tài sản và chính trị là những động lực trung tâm gây ra tình trạng xã hội tan rã, cũng như việc trung ương hoá, tập trung quyền lực vào tay một số nhà lãnh đạo. Việc này không chỉ gây ra những căng thẳng trong xã hội, mà còn trói buộc, cản trở năng lực của xã hội trong việc ứng phó với các vấn đề sinh thái, xã hội và kinh tế.

Lĩnh vực lịch sử - động lực (cliedymamics) phác ra việc các yếu tố, chẳng hạn như sự liên quan giữa sự bình đẳng và vị trí địa lý với tình trạng bạo lực chính trị.

Việc phân tích số liệu thống kê về các xã hội trước đây cho thấy điều này xuất hiện theo chu kỳ.
Khi dân số tăng lên, nguồn lao động cũng tăng lên, dẫn tới cung vượt cầu. Khi đó, nhân công trở nên rẻ hơn và xã hội trở nên quá nặng nề ở phần thượng tầng. Sự bất bình đẳng này làm xói mòn tâm lý đoàn kết chung, từ đó dẫn tới tình trạng bất ổn chính trị.

SỰ PHỨC TẠP: Chuyên gia nghiên cứu về sự sụp đổ của các nền văn minh, sử gia Joseph Tainter đưa ra ý kiến rằng các xã hội rốt cuộc sụp đổ bởi chính sức nặng của mình, được tích tụ lại thành sự phức tạp và tình trạng quan liêu.
Để giải quyết được các vấn đề mới, các xã hội đã phải phát triển lên mức độ phức tạp, tinh tế. Thế nhưng mức độ phức tạp đến một lúc nào đó sẽ đạt mức cực thịnh rồi dần đi xuống. Từ đó trở đi sẽ tới lúc sụp đổ.

Có một biện pháp khác giúp tăng mức độ phức tạp, được gọi là Lợi tức Năng lượng Đầu tư (Energy Return on Investment - EROI). Thuật ngữ này được dùng để chỉ tỷ lệ giữa tổng năng lượng có được từ một nguồn tài nguyên nào đó và số năng lượng cần thiết phải sử dụng để thu được tổng năng lượng đó.
Cũng giống như sự phức tạp, EROI có vẻ như cũng có điểm cực thịnh rồi đi đến thoái trào.

Trong cuốn The Upside of Down của mình, khoa học gia Thomas Homer-Dixon quan sát thấy sự xuống cấp của môi trường trong suốt thời kỳ tồn tại của Đế chế La Mã đã dẫn tới sự đi xuống nhanh chóng của EROI trong nguồn cung ứng lương thực thực phẩm: các vụ mùa lúa mạch và cỏ linh lăng (alfalfa - chuyên để nuôi gia súc). Đế chế La Mã đi xuống cùng với EROI của nó.
Tainter cũng cho rằng đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ, trong đó gồm cả sự sụp đổ của nền văn minh Maya.

NHỮNG CÚ SỐC TỪ BÊN NGOÀI: Nói cách khác, đó là "tứ kỵ mã", gồm chiến tranh, thiên tai, nạn đói và bệnh dịch.
Ví dụ như Đế chế Aztec bị xoá sổ do những kẻ xâm lược Tây Ban Nha. Hầu hết các nhà nước nông nghiệp tàn lụi là do những trận dịch bệnh chết người.

Việc con người và gia súc sống quần tụ trong những khu định cư có tường rào vây quanh với điều kiện vệ sinh tồi tệ khiến các trận bùng phát dịch bệnh là điều không thể tránh khỏi.
Có đội khi các thảm hoạ khác nhau xảy ra cùng lúc, như trong trường hợp người Tây Ban Nha mang bệnh đường ruột tới châu Mỹ.

NHỮNG YẾU TỐ TÌNH CỜ / XUI XẺO: Phân tích số liệu thống kê về các đế chế cho thấy sự sụp đổ xảy ra ngẫu nhiên và không liên quan gì tới thời gian đã tồn tại của đế chế.

Nhà sinh học chuyên về tiến hoá và khoa học gia chuyên về phân tích dữ liệu Indre Zliobaite cùng các đồng nghiệp của bà đã quan sát thấy có mô hình tương tự trong hồ sơ tiến hoá của các loài.
Có một sự giải thích chung cho sự ngẫu nhiên này, đó là "Hiệu ứng Nữ hoàng Đỏ": nếu các loài liên tục đấu tranh sinh tồn trong một môi trường thay đổi với các đối thủ cạnh tranh, thì sự tuyệt chủng sẽ rồi sẽ đến với một số loài,

Tuy đã có khá nhiều các cuốn sách, các bài báo viết về chủ đề này, nhưng chúng ta vẫn không có một lời giải thích rõ ràng về lý do khiến các nền văn minh sụp đổ.
Điều mà chúng ta đã biết đó là các yếu tố được nêu trên đây đều có thể góp phần dẫn tới sự sụp đổ đó.

Sự sụp đổ chỉ là hiện tượng bên trên, còn các yếu tố bên dưới, kết hợp lại với nhau, chính là thứ tàn phá, tác động tới khả năng thích ứng của xã hội.

*
Luke Kemp là nhà nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu về sự sinh tồn của các xã hội, Centre for the Study of Existential Risk, tại Đại học Cambridge.

Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.

------------------------

XEM THÊM

Lê Mạnh Hùng
March 6, 2019

Trong một câu chuyện gần đây với mấy người bạn, biết rằng tôi đang viết một cuốn sách về các nền văn minh, một anh bạn bỗng hỏi, trong tình trạng hiện thời, vậy thì nguy cơ nền văn minh của chúng ta sụp đổ có nhiều khả năng đến đâu. Câu hỏi này bỗng làm tôi suy nghĩ nhiều và sau đây là môt số suy nghĩ để trình bày với quý vị độc giả.

Sử gia Arnold Toynbee trong tác phẩm khổng lồ 12 tập “A Study of History” nghiên cứu về sự nổi lên và sụp đổ của 28 nền văn minh trên thế giới đã đưa ra kết luận: “Các nền văn minh không chết vì bị giết. Chúng chỉ chết vì tự tử.”

Ông Toynbeen nói rất đúng, nhưng không phải hoàn toàn đúng. Tuy rằng cái chết của các nền văn minh đều là do tự tử, nhưng việc tự tử này phần nhiều là có được giúp đỡ.

Nền văn minh La Mã chẳng hạn tuy rằng là nạn nhân của rất nhiều những bệnh mà tự mình gây ra, bành trướng quá mức, hủy hoại môi sinh, lãnh đạo hủ hóa, phân hóa xã hội và tôn giáo nhưng nó chỉ chết hẳn khi mà thành phố Rome bị rợ Visigoth đánh chiếm và cướp bóc vào năm 410 rồi sau đó bởi rợ Vandal vào năm 455.

Sự sụp đổ khi đến thì thường rất là nhanh, và những huy hoàng của quá khứ không làm cho nó được miễn nhiễm. Đế quốc La Mã chẳng hạn bao gồm một diện tích 4.4 triệu cây số vuông (1.9 triệu dặm vuông) vào năm 390. Chỉ năm năm sau nó thu lại còn 2 triệu cây số vuông (770,000 dặm vuông) và đến 470 thì không còn gì nữa.

Quá khứ của chúng ta đầy dẫy những tấm gương sụp đổ của các nền văn minh. Tại Đại Học Cambridge, có một trung tâm, Centre for the Study of Existential Risk, nghiên cứu về những nguy cơ có thể làm hại cho sự hiện hữu của loài người trong đó có nguy cơ sụp đổ của nền văn minh hiện nay của nhân loại. Và người ta đã đưa ra một số tiêu chuẩn để định nghĩa thế nào là sự sụp đổ và những nguyên nhân của nó.

Một sự sụp đổ có thể được định nghĩa như là một sự giảm sút mau chóng và lâu dài dân chúng cũng như những cơ cấu kinh tế xã hội. Các dịch vụ công cộng bị sụp đổ và loạn lạc nổi lên khi nhà nước mất đi quyền kiểm soát và độc quyền dùng bạo lực. Hầu như tất cả các nền văn minh trong quá khứ đều phải đối phó với số phận này. Một số phục hồi lại được như nền văn minh cổ đại Ai Cập và Trung Quốc. Một số chết đi, nhưng trên thây ma của nó sau một thời gian nổi lên một nền văn minh mới thừa kế như nền văn minh phương Tây nổi lên với di sản của Hy Lap, La Mã và các nền văn minh khác trong quá khứ. Có khi nền văn minh này chết đi luôn tỷ như nền văn minh Maya tại Mexico với các thành thị trở thành những di chỉ điêu tàn và sau cùng trở thành những nơi cho khách du lịch thăm viếng.

Những điều xảy ra trong quá khứ giúp chúng ta đoán được gì về tương lai nền văn minh toàn cầu mà chúng ta đang sống? Liệu những bài học rút từ những nền văn minh có cơ sở là nông nghiệp có áp dụng được cho nền văn minh tư bản kỹ thuật của chúng ta hay không?
Vấn đề ở đây không phải là trình độ kỹ thuật mà là sự phức tạp của cơ cấu xã hội. Và các xã hội trong quá khứ cũng phức tạp không kém gì xã hội của chúng ta hiện nay. Lý thuyết toàn học về các hệ phức tạp cho thấy rằng bất kể chúng thuộc loại nào, chúng đều thường xuyên có nguy cơ bị sụp đổ.

Thành ra sụp đổ có thể là một hiện tượng bình thường cho mọi nền văn minh. Chúng ta có thể tiến bộ hơn về kỹ thuật so với quá khứ, nhưng điều đó không có thể nào làm chúng ta miễn nhiễm với những nguy cơ làm sụp đổ nền văn minh của các tổ tiên chúng ta. Không những thế những kỹ thuật mới của chúng còn có thể tạo ra những nguy cơ mới chưa từng có trước kia.

Nếu số phận của các nền văn minh trước là những chỉ dẫn cho tương lai của nền văn minh chúng ta thì những chỉ dẫn đó là gì. Dưới đây là một số những yếu tố mà các sử gia, các nhà nhân chủng và những chuyên gia khoa học xã hội khác đưa ra giải thích các cuộc sụp đổ của các nền văn minh trong quá khứ:

-Thay đổi khí hậu: Khi sự ổn định của hệ thống khí hậu thay đổi, thì hậu quả của nó có thể kinh khủng. Nó tạo ra việc thất thu liên tục trong mùa màng, nạn đói và sa mạc hóa. Sự sụp đổ của nhiều nền văn minh, từ nền văn minh đầu tiên Sumer-Akkad cho đến nền văn minh Maya tại Châu Mỹ và văn minh La Mã đều trùng hợp với những giai đoạn mà khí hậu thay đổi mạnh.

-Hủy hoại môi sinh: Sụp đổ cũng có thể xảy ra khi xã hội khai thác vượt quá khả năng chịu đựng của môi trường sinh sống. Lý thuyết sụp đổ vì hủy hoại môi sinh đưa ra những lý do dẫn đến sự khủng hoảng qua việc phá hủy rừng quá mức, ô nhiễm nguồn nước, mất đa dạng sinh học như là tạo ra những biến động kinh tế xã hội.

-Bất công kinh tế xã hội và tập trung quyền lực trong tay một nhóm nhỏ: Bất công kinh tế chính trị thường là một động cơ căn bản dẫn đến sự phân hóa xã hội. Tương tư như vậy là tình trạng một nhóm nhỏ tập trung quyền lực trong tay mình. Những chuyện này không những làm gia tăng căng thẳng xã hội mà còn làm cản trở khả năng của xã hội đối phó với những vấn đề tạo ra do những nguyên nhân ngoại lai như môi sinh hoặc khí hậu. Cổ xã hội học đã xây dựng được những mô hình cho thấy các yếu tố tỷ như bất công xã hội và dân số có liên hệ trực tiếp với bạo động chính trị. Phân tích thống kê những tư liệu còn lại của các xã hội xưa cho thấy rằng đây là một hiện tượng tuần hoàn. Với dân chúng gia tăng, số lao động cung ứng vượt quá nhu cầu đẩy giá nhân công xuống thấp và bất công gia tăng. Bất công này xói mòn tinh thần đoàn kết xã hội và những xáo trộn chính trị xảy ra.

Mặc dầu có rất nhiều nghiên cứu nhưng chúng ta còn chưa có một lý thuyết nào đáng tin cậy về sự sụp đổ của những nền văn minh. Điều chúng ta biết là những yếu tố nói trên đều có thể đóng góp vào. Sụp đổ là một hiện tượng bước ngoặt xảy ra khi các yếu tố áp lực vượt quá khả năng đối phó của xã hội. Thành ra sự sụp đổ của nền văn minh chúng ta đang sống không bắt buộc phải tất yếu. Lịch sử khuyến dụ rằng nó có triển vọng xảy ra, nhưng chúng ta có cái lợi thế là có thể học hỏi từ những tấm gương của quá khứ để tìm cách tránh. (Lê Mạnh Hùng)

----------------------------------

Rachel Nuwer
BBC Future
26 tháng 4 2017

Nhà kinh tế chính trị học Benjamin Friedman đã từng so sánh xã hội phương Tây hiện đại như một chiếc xe đạp vững chãi mà bánh xe quay được là nhờ ở sự tăng trưởng kinh tế. Nếu sự chuyển động này mà chậm lại hoặc dừng thì các trụ cột xác định xã hội của chúng ta, là dân chủ, tự do cá nhân, sự khoan dung xã hội và nhiều thứ khác, sẽ bắt đầu chao đảo. Thế giới của chúng ta sẽ trở thành một nơi ngày càng khó chịu, nơi tranh giành các nguồn cung cấp bị hạn chế và nơi từ chối những người không thuộc nhóm tiếp cận với mình. Nếu chúng ta không tìm được cách để bánh xe quay trở lại, ta sẽ phải đối mặt với sự sụp đổ toàn xã hội.

Sự sụp đổ như vậy đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử nhân loại, và không có nền văn minh nào, cho dù tuyệt vời đến mấy, cũng không thể tránh khỏi biến động dẫn tới sụp đổ xã hội. Cho dù lúc này mọi việc đang tốt đẹp, nhưng tình hình luôn có thể thay đổi. Bỏ qua các sự kiện kết liễu các loài như sự va chạm của hành tinh, mùa đông hạt nhân hoặc đại dịch chết người, lịch sử cho chúng ta biết rằng nó thường là rất nhiều yếu tố góp phần vào sự sụp đổ. Những yếu tố đó là gì, và nếu có, cái gì đã bắt đầu hé lộ? Không có gì đáng ngạc nhiên là nhân loại hiện đang trên con đường không bền vững và không chắc chắn, nhưng chúng ta sắp tới điểm mà không thể quay lại được nữa chưa?

Mặc dù không thể tiên đoán tương lai một cách chắc chắn, nhưng toán học, khoa học và lịch sử có thể cung cấp những lời khuyên về triển vọng của các xã hội phương Tây để tiếp tục duy trì lâu dài.

Safa Motesharrei, một nhà khoa học về hệ thống tại Đại học Maryland, có sử dụng các mô hình máy tính để hiểu sâu hơn về các cơ chế mà chúng có thể dẫn đến sự bền vững hoặc sụp đổ cục bộ hoặc toàn cầu. Theo những phát hiện mà Motesharrei và các đồng nghiệp của ông xuất bản vào năm 2014, có hai yếu tố quan trọng, đó là căng thẳng sinh thái và phân tầng kinh tế. Yếu tố sinh thái dẫn đến hủy diệt thì dễ hiểu, đặc biệt về mặt cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên như nước ngầm, đất, thủy sản và rừng, tất cả đều có thể trở nên tồi tệ hơn do biến đổi khí hậu.

Mặt khác, sự phân tầng kinh tế có thể dẫn đến sự sụp đổ của chính nó, lại là điều làm cho Motesharrei và đồng nghiệp ngạc nhiên hơn. Theo kịch bản này, giới giàu có đang đẩy xã hội vào tình trạng bất ổn và cuối cùng là sụp đổ bằng cách tích trữ với số lượng lớn tiền của và tài nguyên, và để lại ít hoặc không có gì cho người dân thường là những người chiếm đại đa số nhưng vẫn hỗ trợ họ bằng lao động. Cuối cùng là người dân lao động suy sụp vì tiền của dành cho họ là không đủ, tiếp theo là sự sụp đổ của giới giàu có do không có lao động. Sự bất bình đẳng mà chúng ta thấy ngày hôm nay trong phạm vi một nước và giữa các nước nói lên điều này. Chẳng hạn, 10% số người có thu nhập toàn cầu cao nhất chịu trách nhiệm về tổng lượng phát thải khí nhà kính gần bằng tổng số 90% số người còn lại. Tương tự, khoảng một nửa dân số thế giới sống dưới 3 đô la một ngày.

Đối với cả hai kịch bản, các mô hình đã xác định khả năng chịu tải (nghĩa là tổng dân số mà nguồn tài nguyên của một môi trường nhất định có thể chịu đựng được một cách dài hạn). Nếu khả năng chịu tải quá cao thì sự sụp đổ là không tránh khỏi. Tuy nhiên, hậu quả này là có thể tránh được. "Nếu chúng ta đưa ra những lựa chọn hợp lý để giảm các yếu tố như bất bình đẳng, như bùng nổ dân số, như tốc độ mà ta làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và tốc độ ô nhiễm, là những thứ có thể thực hiện được, thì chúng ta có thể tránh sụp đổ và ổn định được theo một quỹ đạo bền vững" Motesharrei nói. "Nhưng chúng ta không thể chờ đợi mãi những quyết định đó được."

Thật không may, một số chuyên gia tin rằng những quyết định khó khăn như vậy vượt quá khả năng chính trị và tâm lý của chúng ta. "Thế giới sẽ không tới tầm giải quyết vấn đề khí hậu trong thế kỷ này, đơn giản là vì nó tốn kém hơn để giải quyết vấn đề trong thời gian ngắn so với việc như đang làm hiện nay" Jorgen Randers (giáo sư danh dự về chiến lược khí hậu tại Trường Kinh doanh BI của Na Uy và tác giả của cuốn "2052: Dự báo toàn cầu trong bốn mươi năm tới") cho biết. "Vấn đề khí hậu sẽ trở nên tồi tệ, tồi tệ, tồi tệ hơn bởi vì chúng ta không có khả năng làm những gì chúng ta đã hứa ở Hiệp Định Paris và ở các nơi khác."

Mọi chúng ta đều ở trong bối cảnh này nhưng người nghèo nhất thế giới sẽ cảm thấy đầu tiên những tác động sụp đổ. Thật vậy, một số quốc gia đã gánh chịu những khó khăn này như vật thử nghiệm mà có thể làm các quốc gia giàu hơn xa cách nhau. Chẳng hạn Syria, có một giai đoạn dân số phát triển nhanh. Một đợt hạn hán trầm trọng vào cuối những năm 2000, có thể là do sự thay đổi khí hậu mà con người gây ra, kết hợp với tình trạng thiếu nước ngầm làm cho sản xuất nông nghiệp tồi tệ. Khủng hoảng đó làm cho rất nhiều người dân, đặc biệt là thanh niên, bị thất nghiệp, bất mãn và tuyệt vọng. Nhiều người đổ về các trung tâm đô thị, đè nặng lên các nguồn lực và dịch vụ hạn chế ở đây. Sự căng thẳng sắc tộc, đã có từ trước, đã gia tăng, tạo nền tảng cho bạo lực và xung đột. Thêm vào đó, quản lý kém của chính phủ, bao gồm các chính sách tự do cạnh tranh, loại bỏ trợ cấp về nước ở giữa kỳ hạn hán, đã đưa đất nước này vào cuộc nội chiến năm 2011, làm nó chao đảo đi tới sự sụp đổ.

Theo Thomas Homer-Dixon, (chủ tịch của các hệ thống toàn cầu tại trường Quan hệ Quốc tế Balsillie, Waterloo, Canada, và tác giả cuốn The Upside Down) thì trong trường hợp sụp đổ của Syria, giống như ở các xã hội khác trong lịch sử, không phải là một mà là rất nhiều yếu tố đã đóng góp vào. Homer-Dixon gọi những lực kết hợp này là sức nén kiến tạo là vì nó tích tụ âm thầm rồi đột ngột bùng phát, đè bẹp bất kỳ cơ chế ổn định nào đang giữ xã hội trong tầm kiểm soát.

Gác trường hợp Syria sang một bên, thì một dấu hiệu rằng chúng ta đang đi vào một vùng nguy hiểm, Homer-Dixon nói, là sự xảy ra ngày càng gia tăng của những cái mà các chuyên gia gọi là những thay đổi phi tuyến tính, hoặc đột ngột, khôn lường trong trật tự thế giới, như cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, sự xuất hiện của ISIS, Brexit, hoặc việc bầu Donald Trump.

Xét quá khứ ta có thể đoán tương lai sẽ diễn biến thế nào. Chẳng hạn, sự vươn lên và sụp đổ của Đế Chế La Mã. Vào cuối những năm 100 TCN người La Mã đã lấn chiếm vượt qua Địa Trung Hải, tới những nơi gần biển. Họ nên dừng lại ở đó, nhưng mọi việc đã diễn ra tốt đẹp nên họ muốn mở rộng biên giới mới theo đường bộ. Vận chuyển bằng đường biển thì kinh tế, nhưng vận chuyển bằng đường bộ thì chậm và đắt tiền. Họ đã mở rộng bờ cõi quá rộng nên phải chi phí quá nhiều. Đế Chế vẫn duy trì ổn định trong những thế kỷ tiếp theo, nhưng những hậu quả do việc phải trải mỏng đã xảy ra vào thế kỷ thứ 3, với các cuộc nội chiến và xâm lăng. Đế Chế đã cố gắng duy trì các vùng đất chính, nhưng do quân đội sài nhiều tiền và lạm phát tăng cao hơn nên chính phủ đã phải làm giảm chất liệu đồng tiền bạc của mình để cố gắng trang trải chi tiêu. Một số học giả nêu sự sụp đổ bắt đầu vào năm 410 khi mà quân Visigoth xâm chiếm thủ đô, sự kiện này đã tạo ra một vòng xoáy đi xuống kéo dài hơn một thế kỷ.

Theo Joseph Tainter, giáo sư về môi trường và xã hội tại đại học Utah và là tác giả của cuốn The Collapse of Complex Societies, thì một trong những bài học quan trọng nhất của sự sụp đổ của Rome là sự phức tạp có cái giá phải trả. Như đã nêu trong các luật về nhiệt động lực học, cần phải có năng lượng để duy trì bất kỳ hệ thống nào trong một trạng thái phức tạp và có trật tự, và xã hội loài người không là ngoại lệ. Đến thế kỷ thứ 3, Rome ngày càng bổ sung thêm những thứ mới, một quân đội tăng gấp đôi, một đội kỵ binh, các tỉnh nhỏ lẻ mà mỗi tỉnh có bộ máy hành chính, toà án và lực lượng phòng vệ riêng, chỉ để duy trì hiện trạng và không bị trượt lùi. Cuối cùng, Rome không còn đủ khả năng kham nổi những sự phức tạp gay gắt này. Sự yếu kém về tài chính, chứ không phải do chiến tranh, đã làm Đế Chế suy sụp.

Cho đến nay, các xã hội phương Tây hiện đại đã có thể trì hoãn sự lao dốc tương tự của sự sụp đổ thông qua các nhiên liệu hoá thạch và công nghệ công nghiệp, như việc làm dập đá phiến chứa dầu bằng thủy lực xuất hiện năm 2008, vừa kịp để bù đắp cho việc giá dầu tăng cao. Tuy nhiên Tainter nghi ngờ điều này sẽ không phải luôn luôn đúng. "Hãy tưởng tượng các chi phí nếu chúng ta phải xây dựng một vách ngăn biển xung quanh Manhattan, chỉ để bảo vệ chống bão và thủy triều lên," ông nói. Cuối cùng, đầu tư vào sự phức tạp như là một chiến lược giải quyết khó khăn sẽ đạt đến một điểm làm giảm dần lợi nhuận, làm suy yếu tài chính, dẫn đến khả năng sụp đổ. Đó là, ông nói "trừ khi chúng ta tìm ra một cách để chi trả cho sự phức tạp, giống như tổ tiên chúng ta đã làm khi họ điều hành xã hội qua nhiên liệu hóa thạch."

Cũng tương tự Rome, Homer-Dixon tiên đoán rằng sự sụp đổ của các xã hội phương Tây được thể hiện trước bằng sự rút lui của người dân và các nguồn lực trở về nước họ. Khi các quốc gia nghèo hơn tiếp tục tan rã do có xung đột và thiên tai, những làn sóng di dân khổng lồ sẽ tràn ra khỏi những khu vực tai họa, tìm kiếm nơi ẩn náu ở các quốc gia ổn định hơn. Các xã hội phương Tây sẽ có những hạn chế và thậm chí cấm nhập cư; những bức tường nhiều tỷ đô la và máy bay tuần tra biên phòng và quân đội; tăng cường an ninh đối với nhập cư; và sự quản chế độc tài và dân túy hơn. "Đó gần như là một nỗ lực tránh bị xâm hại của các quốc gia để duy trì khoảng cách và đẩy áp lực trở lại," Homer-Dixon nói.

Trong khi đó, khoảng cách ngày càng tăng giữa người giàu và người nghèo trong những nước phương Tây sẽ đẩy xã hội tiến tới sự mất ổn định hơn nữa từ bên trong. "Đến năm 2050, Mỹ và Anh sẽ tiến triển thành các xã hội hai tầng lớp, một tầng lớp tinh hoa ít người sống một cuộc sống tốt đẹp, và sự suy giảm phúc lợi với đa số dân". Randers nói. "Sự công bằng sẽ sụp đổ".

*
Nguồn :
By Rachel Nuwer
18 April 2017





No comments:

Post a Comment

View My Stats